Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế

Phát triển chương trình đào tạo (CTĐT) là quá trình liên tục làm hoàn thiện CTĐT. Việc phát

triển CTĐT nhân lực NDT tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng, then chốt, quyết định hiệu quả, hiệu

lực của các chương trình kiểm soát và đảm bảo chất lượng (QA/QC) trong công nghiệp với hàng loạt

các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, thông qua công cụ là các phương pháp, kỹ thuật Kiểm tra

Không phá hủy (NDT) từ truyền thống đến hiên đại.

Qua hơn 10 năm phát triển và trưởng thành, Trung tâm Đánh giá Không phá hủy (NDE) đã

dần khẳng định được vị thế và trở thành đơn vị hàng đầu trong lĩnh vực đào tạo và đánh giá nhân lực

NDT tại Việt Nam. Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, các Đề tài cấp Viện, cấp Bộ,

Trung tâm đã xây dựng được một hệ thống CTĐT chuẩn mực và bám sát với các tiêu chuẩn Quốc tế.

Tuy nhiên, để đa dạng hóa và tiến tới mục tiêu trở thành một tổ chức chứng nhận đáp ứng được các

tiêu chuẩn ngày càng đòi hỏi khắt khe này, cần phải liên tục Phát triển để cải tiến và hoàn thiện các

CTĐT hiện có, đồng thời biên soạn hay xây dựng các CTĐT cho phương pháp mới, bắt kịp được xu

hướng phát triển của thế g

Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trang 1

Trang 1

Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trang 2

Trang 2

Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trang 3

Trang 3

Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trang 4

Trang 4

Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trang 5

Trang 5

Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trang 6

Trang 6

pdf 6 trang duykhanh 14800
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế

Phát triển chương trình đào tạo nhân lực NDT tại Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế
ai hỏng kết cấu mà NDT có thể phát hiện)
- 691 thảm họa chết người hàng không, chưa tính 
các vụ vận tải và quân sự hay khủng bố, với 3,3 tỷ 
lượt hành khách đi lại bằng đường hàng không 
trên toàn thế giới năm 2014. 
(https://www.bergeng.com/)
Các số liệu thống kê cũng cho thấy, nhu cầu về 
NDT tăng nhanh và liên tục với thị trường NDT 
chiếm tỷ trọng lớn nhất trên thế giới là Bắc Mỹ, 
trong khi đó, khu vực Châu Á Thái Bình Dương 
đang nổi lên là thị trường có tốc độ tăng trường 
nhanh chóng và đầy tiềm năng trong thời gian 
tới. 
Tại Hoa Kỳ, NDT hiện được đánh giá là một 
nghề nghiệp (career) có sức hấp dẫn lớn, với mức 
lương cao, tốc độ tăng lương cao trong khi hiệu 
quả đầu tư cao (chi phí đào tạo nghề thấp), độ ổn 
định công việc lớn (tỷ lệ thất nghiệp rất thấp) so 
với mặt bằng chung của xã hội. 
Lý luận và thực tiễn ứng dụng công nghiệp NDT 
gần trăm năm qua đều thống nhất rằng, vai trò 
của cá nhân NDT, cụ thể là trình độ, có ý nghĩa 
quyết định đến hiệu quả và hiệu lực của NDT. Do 
bản chất của các phương pháp NDT là “gián tiếp” 
(indirect), nên các cấp có thẩm quyền “buộc” phải 
đặt niềm tin vào kỹ năng, kinh nghiệm, sự đánh 
giá và tính nhất quán của cá nhân những người 
tham gia trong lĩnh vực này. Chính vì vậy, ngay 
từ những năm 60 thế kỷ trước, cộng đồng công 
nghiệp NDT đã bắt đầu xúc tiến xây dựng và phát 
triển các hệ thống đánh giá, chứng nhận cá nhân 
NDT cùng các chương trình đào tạo tương ứng. 
Cho đến nay đã hình thành và vận hành song 
song hai hệ thống chính trên thế giới: hệ thống 
chứng nhận công ty (nội bộ), được sử dụng phổ 
biến tại Hoa Kỳ, dựa trên tiêu chuẩn SNT-TC-1A, 
và hệ thống chứng nhận trung tâm (độc lập), phổ 
biến tại Châu Âu và nhiều nước khác, dựa theo 
tiêu chuẩn ISO 9712. Hai hệ thống chứng nhận 
có mục tiêu, yêu cầu, điều kiện về cơ bản là tương 
đồng nhưng có cách thức thực hiện (chứng nhận) 
khác nhau, và mỗi hệ thống đều có những ưu 
điểm, nhược điểm riêng, không có hệ thống nào 
là hoàn hảo hay vượt trội tuyệt đối. Đây là lý do 
giải thích xu hướng và yêu cầu ngày một tăng về 
việc hài hòa hóa (harmonization) và công nhận 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
33Số 64 - Tháng 9/2020
đa phương (mutual recognization) chứng chỉ cá 
nhân NDT trên phạm vi toàn cầu.
1.2. Ứng dụng NDT tại Việt Nam 
Kiểm tra không phá hủy (NDT) đã được đưa vào 
áp dụng khá sớm tại Việt Nam như một công cụ 
cần thiết để kiểm soát và đảm bảo chất lượng sản 
phẩm, công trình công nghiệp. 
Có thể phân tách sơ lược quá trình này thành 03 
giai đoạn: 
Thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước
- Miền Bắc áp dụng theo hệ thống tiêu chuẩn của 
khối các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên 
Xô.
- Miền Nam áp dụng chủ yếu theo hệ thống tiêu 
chuẩn Hoa Kỳ.
Thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước sau thống 
nhất, từ năm 1975 đến trước thời kỳ đổi mới
Cùng với các việc xây dựng các công trình công 
nghiệp trọng điểm từ nguồn viện trợ giúp đỡ to 
lớn của Liên Xô, như thủy điện, nhiệt điện, xi 
măng, cầu đường, trung tâm cơ khí, vvnhiều 
lĩnh vực trong đó có NDT của đất nước áp dụng 
theo hoặc dựa trên hệ thống tiêu chuẩn nhà nước 
của nước bạn (GOST). Đặc điểm của áp dụng 
NDT trong thời kỳ này chủ yếu là trực tiếp từ các 
nhà chế tạo, hầu như thiếu vắng các tổ chức cung 
cấp dịch vụ kiểm tra chuyên nghiệp.
Thời kỳ ĐỔI MỚI, từ 1986 đến nay
Đây là thời kỳ có nhiều sự thay đổi, do nền kinh 
tế đất nước từ cơ chế tập trung, bao cấp chuyển 
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước 
theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ này diễn ra trong bối cảnh mà nền kinh 
tế thế giới với xu hướng toàn cầu hóa đang phát 
triển mạnh mẽ, do vậy đưa đến yêu cầu và thực tế 
hội nhập sâu rộng của đất nước với quốc tế. Cùng 
với các dự án công nghiệp lớn từ nguồn đầu tư 
nước ngoài phát triển ngày càng nhiều, dẫn đến 
việc áp dụng các công nghệ mới, tiêu chuẩn mới, 
từ sản xuất, chế tạo đến kiểm soát, đảm bảo chất 
lượng, trong đó có NDT liên tục phát triển và 
tăng trưởng mạnh. Sự lớn mạnh của lĩnh vực này 
thể hiện rõ nét ở việc xuất hiện một số công ty, 
tổ chức cung cấp dịch vụ NDT chuyên nghiệp có 
quy mô và tiềm lực lớn, doanh thu hàng năm lên 
đến hàng trăm tỷ đồng, đáp ứng hầu hết các nhu 
cầu liên quan trong các dự án công nghiệp trọng 
điểm. 
Chỉ tính riêng giai đoạn cuối năm 2019 đến 06 
tháng đầu năm 2020, dù nền kinh tế toàn cầu và 
Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch 
COVID -19, nhưng các dự án công nghiệp trọng 
điểm vẫn tiếp tục được triển khai và do đó nhu 
cầu đào tạo về NDT lại không hề sụt giảm mà vẫn 
được duy trì ổn định, ở một số thời điểm có xu 
hướng tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Hàng 
loạt các dự án từ xây dựng mới cho tới bảo dưỡng 
liên tục tuyển dụng số lượng lớn nhân sự NDT 
điển hình như Tổ hợp hóa dầu Long Sơn, sân bay 
Long Thành, hệ thống tàu điện ngầm và đường 
sắt trên cao tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, 
các trung tâm nhiệt điện lớn như Mông Dương, 
Vân Phong, Vĩnh Tân, vv  kéo theo đó là nhu 
cầu đào tạo đào tạo nhân sự NDT cũng tăng lên.
Bảng 1. Số liệu thống kê các khóa đào tạo chỉ 
riêng tại Trung tâm NDE từ năm 2009 đến nay
Nguồn trích dẫn: Báo cáo tổng kết hàng năm Trung tâm NDE
Trong thời gian tới, với chủ chương của chính 
phủ về việc “Mở nút thắt” cho hàng loạt các dự án 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
34 Số 64 - Tháng 9/2020
trọng điểm quốc gia về phát triển kết cấu hạ tầng 
như Giao thông và Năng lượng, đồng thời đón 
đầu làn sóng chuyển dịch đầu tư từ nước ngoài, 
thị trường NDT ở Việt Nam hứa hẹn sẽ trở thành 
một thị trường nhiều tiềm năng và cơ hội phát 
triển.
1.3. Thực trạng chứng nhận. đào tạo trình độ cá 
nhân NDT trên thế giới và Việt Nam
1.3.1 Thực trạng trên thế giới
Hiện tại trên thế giới có hai hệ thống chứng nhận 
chính song song tồn tại và phát triển bao gồm: 
“Hệ thống chứng nhận của Tổ chức chủ quản” 
(employer-based) theo SNT-TC-1A và “Hệ thống 
chứng nhận trung tâm” (central) theo tiêu chuẩn 
ISO 9712.
Hệ thống chứng nhận công ty (nội bộ - ) dựa theo 
tiêu chuẩn SNT-TC-1A, Hội kiểm tra không phá 
hủy Hoa Kỳ (ASNT)
Theo hệ thống này, tổ chức chủ quản chịu trách 
nhiệm toàn bộ quá trình tạo dựng, đánh giá và 
chứng nhận trình độ nhân viên NDT của họ 
bao gồm: đào tạo, kinh nghiệm, đánh giá, chứng 
nhận, gia hạn, dừng-treo, hủy bỏ, phục hồi (chứng 
nhận).
Do sự mềm dẻo, linh động có tính “may đo” sát 
với nhu cầu và yêu cầu riêng về ứng dụng NDT, 
hệ thống “công ty” có tính phổ biến cao tại Hoa 
Kỳ và rất nhiều các dự án dầu khí, năng lượng 
“xuyên quốc gia” trên khắp thế giới, bao gồm cả 
Việt Nam. Tuy nhiên, việc đảm bảo tính khách 
quan về đánh giá và chứng nhận trình độ cá nhân 
NDT, đặc biệt tại các nước đang phát triển, dễ gây 
những nghi ngại khi công nhận và áp dụng hệ 
thống này.
Hệ thống chứng nhận trung tâm (độc lập) dựa 
theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9712
Với hệ thống này, tổ chức chủ quản chịu trách 
nhiệm cung cấp hồ sơ của các ứng viên cùng các 
bằng chứng phù hợp để một tổ chức chứng nhận 
độc lập (CB) xem xét, tổ chức đánh giá và chứng 
nhận cho ứng viên đạt yêu cầu (chương trình 
chứng nhận dựa trên tiêu chuẩn ISO 9712). Tổ 
chức chứng nhận phải có cơ cấu tổ chức, hệ thống 
chất lượng đảm bảo tính khách quan, chuyên 
nghiệp được thể hiện bằng việc đạt được chứng 
chỉ công nhận theo tiêu chuẩn ISO 17024. Tiếp 
đó, các tổ chức đánh giá và công nhận phù hợp 
với tiêu chuẩn ISO 17024, bản thân nó cũng phải 
được đánh giá và phù hợp với tiêu chuẩn ISO 
17011. Rõ ràng, việc đáp ứng đầy đủ các yêu cầu 
này thực sự là một quá trình rất phức tạp, khó 
khăn. Điều đó lý giải mặc dù hiện có khoảng 70 
quốc gia (đồng ý) áp dụng hệ thống chứng nhận 
này (theo số liệu của Hội đồng NDT quốc tế, IC-
NDT, 2016), nhưng số các tổ chức chứng nhận 
độc lập đúng “tiêu chuẩn” là rất ít, và thực tế chỉ 
một vài tổ chức thuộc hai cường quốc NDT là 
Hoa Kỳ và Anh có được uy tín và sự công nhận ở 
phạm vi toàn cầu.
1.3.2. Thực trạng đào tạo NDT tại Việt Nam và 
Trung tâm NDE
Cùng với sự nghiệp Đổi mới, hội nhập quốc tế 
ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã lựa chọn và áp 
dụng hệ thống chứng nhận cá nhân NDT trung 
tâm từ rất sớm thể hiện qua việc ban hành Tiêu 
chuẩn quốc gia TCVN 5868:1995 dựa theo tiêu 
chuẩn ISO 9712:1992 (phiên bản đầu tiên). Tuy 
nhiên do nhiều lý do khách quan từ đặc điểm 
và điều kiện kinh tế-xã hội, cho đến nay, chưa 
có một tổ chức chứng nhận cá nhân NDT tại 
Việt Nam theo hệ thống độc lập này thực sự đạt 
“chuẩn” như yêu cầu, và do đó, có được sự công 
nhận phổ biến. 
Viện NLNTVN với sự hỗ trợ vật chất và kỹ thuật 
của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) 
thông qua các Dự án Hợp tác vùng (RAS), từ cuối 
những năm 1980 đã xây dựng và phát triển năng 
lực lớn trong phát triển ứng dụng NDT, bao gồm 
từ các chuyên gia đầu ngành cho đến các hệ thống 
thiết bị, máy móc, phòng thí nghiệm hiện đại tại 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
35Số 64 - Tháng 9/2020
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Chính từ 
cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ chuyên gia đầu 
ngành đồng bộ ban đầu này, Viện NLNTVN đã 
đào tạo, phát triển cho các ngành công nghiệp 
trong cả nước hàng vạn cá nhân NDT, từ bậc thấp 
đến bậc trình độ cao nhất.
Năm 2008, Trung tâm Đánh giá không phá hủy 
NDE trực thuộc Viện NLNT Việt Nam đã được 
thành lập trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức NDT 
thành viên có truyền thống lâu năm, nhằm trực 
tiếp phục vụ chương trình phát triển Điện Hạt 
nhân của đất nước cũng như các ngành công 
nghiệp trọng điểm.
Qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển, Trung 
tâm liên tục duy trì được truyền thống và vị thế 
hàng đầu của Viện NLNTVN, trở thành địa 
chỉ có uy tín cao trong đào tạo và chứng nhận 
cá nhân NDT. Tính từ năm 2000 trở lại đây, các 
chương trình đào tạo và chứng nhận được thực 
hiện bởi NDE và một số tổ chức khác phần lớn 
là theo hệ thống công ty (nội bộ) dựa theo tiêu 
chuẩn ASNT SNT – TC – 1A. Điều này dẫn tới 
tình trạng mất cân đối trong việc đáp ứng sự đa 
dạng nhu cầu khi mà Việt Nam đang đẩy mạnh 
hợp tác đa phương, hội nhập sâu rộng cả trong 
khu vực và thế giới. cùng các Hiệp định Thương 
mại với châu Âu được phê duyệt và có hiệu lực 
sẽ là các dự án công nghiệp áp dụng tiêu chuẩn 
tương ứng bắt đầu được thực hiện, yêu cầu cần 
một hệ thống chứng nhận trung tâm phù hợp 
tiêu chuẩn quốc tế và Châu Âu, ISO EN 9712, là 
một tất yếu khách quan.
2. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁCH THỨC PHÁT 
TRIỂN CTĐT NHÂN LỰC NDT THEO 
CHUẨN QUỐC TẾ
Là một lĩnh vực đặc thù, NDT luôn luôn phát 
triển không ngừng, các phương pháp, kỹ thuật 
mới được ra đời, nhanh chóng củng cố hoặc thay 
thế các kỹ thuật truyển thống hoặc đã trở nên lạc 
hậu. Đi cùng với đó là sự cập nhật, bổ sung liên 
tục các tài liệu đào tạo và tiêu chuẩn, quy phạm 
liên quan không chỉ trong tác nghiệm mà cả 
trong đào tạo và đánh giá nhân lực NDT. Điều đó 
đòi hỏi các đơn vị đào tạo như NDE phải không 
ngừng thay đổi, cập nhật, bổ sung những cái mới, 
hiện đại để bắt kịp và hội nhập được với xu hướng 
phát triển của thế giới. Cùng với đó, việc đa dạng 
hóa trong áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế là một 
yêu cầu khách quan của thị trường, trong đó xây 
dựng các CTĐT, đánh giá và chứng nhận nhân 
lực NDT không chỉ theo ASNT SNT – TC- 1A 
mà còn phù hợp với tiêu chuẩn TCVN 5868 (ISO 
9712) là một định hướng đúng, đáp ứng nhu cầu 
ngày càng cao của xã hội, sẵn sàng cho việc tiếp 
cận với nền khoa học kỹ thuật phái triển của thế 
giới trong giai đoạn sắp tới, giai đoạn cho sự “Hội 
nhập toàn cầu”.
Rút kinh nghiệm chưa mấy thành công của thời 
gian trước, việc xây dựng hệ thống tổ chức chứng 
nhận độc lập được thực hiện theo hướng bền 
vững, khả thi, trong đó, ưu tiên hàng đầu là sớm 
hình thành và phát triển các cấu phần thiết yếu 
nhất của hệ thống, từ các cơ sở đào tạo, sát hạch-
đánh giá, cho đến các ủy ban đánh giá chuyên 
môn phù hợp các yêu cầu của tiêu chuẩn quốc 
tế ISO 9712. Đây là điều kiện có tính quyết định 
việc hình thành và duy trì bền vững một tổ chức 
chứng nhận cá nhân NDT trung tâm hoạt động 
có hiệu quả và hiệu lực. 
Tháng 08 năm 2019, Bộ KHCN đã chính thức 
phê duyệt cho Trung tâm NDE thực hiện Đề 
tài cấp Bộ tuyển chọn thực hiện trong 02 năm, 
2020-2021, “Xây dựng Hệ thống đào tạo kỹ thuật 
viên NDT đáp ứng chuẩn mực quốc tế”. Trong đó, 
chương trình đào tạo sẽ được xây dựng trên cơ 
sở tiêu chuẩn ISO như ISO/TR 25107; hệ thống 
chất lượng cho các tổ chức đào tạo dựa trên tiêu 
chuẩn ISO 25108:2018, bao gồm hơn 10 tiêu chí, 
điều kiện từ cơ sở vật chất-kỹ thuật; giảng viên; 
chương trình đào tạo; cho đến trang thiết bị 
chuyên dùng.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
36 Số 64 - Tháng 9/2020
Với việc thực hiện các nội dung của Đề tài, nhóm 
thực hiện mong muốn đáp ứng được các yêu cầu 
thực tiễn bao gồm: 
- Xây dựng và quản lý hệ thống chất lượng đào 
tạo đáp ứng các chuẩn mực quốc tế theo ISO 
9001:2015
- Các chương trình đào tạo được nghiên cứu, 
phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong 
việc hội nhập và phát triển kinh tế đó là tự đào 
tạo và đảm bảo nguồn nhân lực trong nước thay 
vì phải đào tạo thông qua các tổ chức quốc tế với 
kinh phí cao không chủ động về thời gian.
- Phát triển đội ngũ nhân lực có trình độ cao, đáp 
ứng các hoạt động chuyên môn-nhiệm vụ thường 
xuyên của Trung tâm và tiến tới và tham gia các 
dự án nước ngoài tại Việt Nam và trên thế giới.
- Tăng cường tiềm lực, cơ sở vật chất thông qua 
đầu tư của nhà nước và kinh phí từ các hoạt động 
tự chủ bao gồm Máy móc, thiết bị, các bộ mẫu 
phục vụ đào tạo thực hành và thi đánh giá, 
Việc thực hiện và áp dụng thành công Đề tài sẽ 
là một động lực lớn để VNLNTVN tiếp tục duy 
trì và củng cố vị thế hàng đầu trong lĩnh vực Đào 
tạo- phát triển nguồn nhân lực NDT có trình độ 
được chuẩn hóa, đủ năng lực tác nghiệp chuyên 
môn tại các công trình công nghiệp trọng điểm 
của đất nước. Đây cũng là bước đi đầu tiên nhưng 
quan trọng bậc nhất trong việc xây dựng và phát 
triển tổ chức chứng nhận cá nhân NDT độc lập 
thực sự phù hợp tiêu chuẩn quốc tế ISO 9712, đáp 
ứng yêu cầu phát triển khách quan của sự nghiệp 
công nghiệp hóa đất nước. 
3. KẾT LUẬN
Thị trường NDT khu vực Châu Á – Thái Bình 
Dương trong đó có Việt Nam, đang là thị trường 
có tốc độ phát triển mạnh nhất bởi các Quốc gia 
mới nổi có nền kinh tế sôi động, nhu cầu về phát 
triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp hóa tăng cao 
không chỉ trong 5 năm tới mà có thể trong nhiều 
những năm sau đó. Từ các cơ hội cũng như thách 
thức được phân tích ở trên, mỗi một đơn vị từ: 
Đào tạo, triển khai ứng dụng, cung cấp thiết bị, 
cần hiểu và nắm bắt được xu thế, đồng thời cần 
không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, xây 
dựng phát triển đội ngũ để đáp ứng những yêu 
cầu của xã hội. Đây chính là vấn cốt lõi để duy trì 
và phát triển.
Đặng Thị Thu Hồng, Trịnh Thị Thúy Hằng, 
Đào Duy Dũng
Trung tâm Đánh giá Không phá hủy

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_chuong_trinh_dao_tao_nhan_luc_ndt_tai_viet_nam_da.pdf