Phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Việc thành lập các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) là một trong những giải pháp quan trọng đối với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phú Thọ là một tỉnh sớm hình thành và phát triển các KCN, CCN (từ những năm 1960). Trong những năm qua, tỉnh cũng đã rất nỗ lực trong việc xây dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp (KCN, CCN) và thu được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Quy hoạch còn lỏng lẻo, cơ sở hạ tầng các KCN, CCN chưa đồng bộ, thu nhập của người lao động ở một số ngành nghề chưa ổn định; chưa có đủ hệ thống xử lý nước thải,. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm làm rõ tình hình phát triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn 2015-2020, từ đó chỉ ra những mặt còn hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc phát triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, 2030
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
1 - - - - - - Tổng 74 64 6 1 2 0 9 18 5 4 (Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ 2015-2020) Hết tháng 12/2020 thì tổng số dự án đang đầu tư trong các KCN, CCN tỉnh Phú Thọ là 183 dự án, trong đó có 87 dự án FDI và 96 dự án DDI. Trong 183 dự án thì có 138 dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường (chiếm 75,41%), 7 dự án đang gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh (3,83%), 2 dự án đã bị dừng sản xuất kinh doanh (1,09%), 27 dự án đang trong quá trình xây dựng cơ bản (14,75%) và 9 dự án đang chuẩn bị được đầu tư trong giai đoạn tới (4,92%). Để có thể nắm bắt được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, các dự án tại các KCN, CCN thì Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ cũng thường xuyên tiến hành rà soát, phân loại các dự án. Một số công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, đóng góp cho ngân sách địa phương nhiều như: Công ty Cổ phần Bia Sài Gòn Phú Thọ; Công ty Xăng dầu, dầu khí Phú Thọ; Công ty CP gạch men Tasa; Công ty CP CMC; Công ty TNHH Cosmos,... Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, có dấu hiệu khó khăn hay đang gặp khó khăn. Đặc biệt trong năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, nhất là trong tháng 4, 5. Một số doanh nghiệp đã phải tạm dừng hoạt động, cho người lao động nghỉ, ngừng việc để tìm giải pháp khắc phục khó khăn, phục hồi sản xuất. 30 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Phạm Phương Thảo và Nguyễn Trọng Tài Bảng 6. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2015-2020 Các chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020 Tổng doanh thu Tỷ đồng 18.356 20.022 22.100 32.520 38.090 43.500 Giá trị xuất khẩu Triệu USD 620 650 780 1.068 3.330 3.500 Nộp ngân sách Tỷ đồng 970 1.021 1.293 1.600 1.500 600 Lao động Người 28.950 31.060 33.538 38.000 42.000 43.860 Thu nhập bình quân NLĐ Triệu đ/ng/tháng 5,0 5,5 5,8 5,5 6,8 6,8 (Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ 2015-2020) Kết quả của việc phát triển các KCN, CCN cũng được phản ánh phần nào qua kết quả sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp trong KCN, CCN mang lại. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2015-2020 nói chung được thể hiện qua bảng 6. Có thể thấy việc phát triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (mở rộng về quy mô, gia tăng về số lượng dự án và vốn đầu tư,...) cùng với hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định của các doanh nghiệp trong KCN, CCN đã có ảnh hưởng tích cực tới kết quả sản xuất kinh doanh và làm gia tăng tổng doanh thu cho các KCN, CCN. Nộp ngân sách cũng tăng lên và đặc biệt là dù trong bối cảnh dịch bệnh khó khăn vẫn duy trì được mức lương ổn định cho người lao động. 3.2.4. Các hoạt động phát triển khác Ngoài phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất kinh doanh trong các KCN, CCN thì hoạt động phát triển các KCN, CCN còn bao gồm: Phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường,... - Phát triển nhân lực: Trong giai đoạn 2015-2020 số lượng lao động làm việc tại các KCN, CCN tỉnh Phú Thọ liên tục tăng lên đạt gần 43.860 lao động vào năm 2020. Trong gần 43.860 lao động thì lao động nữ chiếm 30.702 người (70%), trình độ đại học, cao đẳng chiếm 5,78% còn lại hơn 90% là lao động phổ thông. Thu nhập bình quân/người/ tháng tăng từ 5 triệu đồng/tháng năm 2015 lên 6,8 triệu đồng/tháng năm 2020. Trong giai đoạn này cũng có 3 KCN được thành lập mới đó là KCN Phú Hà (2014), Trung Hà (2015) và KCN Cẩm Khê (2017) nên cần bổ sung thêm nhiều lực lượng lao động, đặc biệt là nguồn lao động có tay nghề cao. Do đó bên cạnh việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở đào tạo nghề, bản thân các doanh nghiệp cũng rất chú trọng đến việc tự đào tạo người lao động tại chính doanh nghiệp. - Bảo vệ môi trường các KCN, CCN: Trong giai đoạn 2015-2020, Ban quản lý các KCN, CCN đã khẩn trương đôn đốc xây dựng hệ thống xử lý nước thải và chất thải tập trung tại các KCN, CCN. Năm 2018 đã hoàn tất việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung cho KCN Thụy Vân và vận hành ổn định, chất lượng nước thải đầu ra nằm trong giới hạn cho phép theo quy định. Trạm đã vận hành xử lý 859.035 m3 nước thải đạt chuẩn cột A; lũy kế số nước thải đã xử lý từ khi đưa nhà máy vào hoạt động đến nay là 3.304.530 m3. Như vậy tính đến cuối năm 2020 đã có KCN Thụy vân, KCN Phú Hà và CCN Đồng Lạng là đã có hệ thống xử lý nước thải và đã đi vào hoạt động. Còn 2 KCN Cẩm Khê, Trung Hà và CCN Bạch Hạc thì đang kêu gọi nhà đầu tư. Do một nửa 31 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 23-33 các KCN, CCN trên địa bàn chưa có hệ thống xử lý nước thải và chất thải tập trung nên việc quản lý, quan trắc chất lượng nước thải ở các KCN, CCN này gặp phải rất nhiều khó khăn, đồng thời cũng gây ra tình trạng ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân các khu vực lân cận. 3.3. Đánh giá chung về phát triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 3.3.1. Kết quả đạt được Một là, việc quy hoạch phát triển các KCN, CCN đã góp phần đổi mới môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Tính đến hết tháng 12/2020, tỉnh Phú Thọ có 4/7 KCN đã được thành lập và đi vào hoạt động và thu hút các dự án đầu tư thứ cấp. Tỷ lệ lấp đầy đạt từ 20-100% ở các KCN, CCN đã hoạt động ổn định. Hai là, các KCN, CCN đã thu hút được một lượng vốn lớn vào đầu tư cơ sở hạ tầng và sản xuất kinh doanh. Lũy kế đến tháng 12/2020, tổng số dự án thu hút đầu tư vào các KCN, CCN tỉnh Phú Thọ là 183 dự án (96 dự án đầu tư trong nước và 87 dự án đầu tư nước ngoài). Tổng số vốn đầu tư đăng ký lũy kế đạt 20.701,86 tỷ đồng (trong nước chiếm 52,46%, nước ngoài chiếm 47,54%). Để đạt được kết quả này, chính quyền địa phương cùng với Ban quản lý các KCN, CCN đã rất tích cực trong việc thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư, đa dạng hóa đầu tư bằng nhiều hình thức. Ba là, các KCN, CCN đã thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp, tăng doanh thu và kim ngạch xuất khẩu, đóng góp không nhỏ cho ngân sách nhà nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ tăng lên đáng kể qua các năm. Doanh thu năm 2020 đạt gần 43.500 tỷ đồng trong đó nộp ngân sách nhà nước 600 tỷ đồng, giá trị xuất khẩu đạt 3.500 triệu USD. Bốn là, giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, hình thành đội ngũ những người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao. 3.3.2. Hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc phát triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định, cụ thể: Một là, quy mô nguồn vốn cho đầu tư phát triển các KCN, CCN còn hạn chế. Mặc dù quy mô nguồn vốn có tăng lên qua các năm nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về đầu tư. Đặc biệt là nguồn vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng còn hạn hẹp. Mặt khác cơ cấu nguồn vốn cũng chưa được cân đối, nguồn vốn dành cho phát triển các KCN, CCN còn phụ thuộc quá nhiều vào vốn đầu tư trong nước, chưa huy động được nhiều các nguồn vốn khác thông qua các hình thức khác như hợp tác công tư (PPP), FDI,.. Bên cạnh đó do các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chủ yếu đều từ nguồn vốn ngân sách nhà nước nên tiến độ đầu tư xây dựng còn chậm. Hai là, cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa được xây dựng đồng bộ, cơ sở hạ tầng xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Phần lớn cơ sở hạ tầng của các KCN, CCN trên địa bàn đều đã được đầu tư xây dựng cơ bản nhưng chưa đồng bộ, còn dở dang. Đặc biệt là giữa hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào và ngoài hàng rào như: Hệ thống đường giao thông ngoài hàng rào các KCN, CCN như đường gom, đường nối KCN với các trục đường giao thông chính chưa hoàn thiện. Việc đầu tư xây dựng hạ tầng xã hội như nhà ở và các công trình phúc lợi xã hội cho người lao động (cơ sở khám chữa bệnh, nhà trẻ mẫu giáo, trường học, khu vui chơi giải trí...) chưa được quan tâm đúng mức. Ba là, thu hút các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong các KCN, CCN 32 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Phạm Phương Thảo và Nguyễn Trọng Tài còn nhỏ lẻ, thiếu tính chọn lọc. Mặc dù số dự án thu hút vào phát triển sản xuất kinh doanh tại các KCN, CCN đã tăng lên qua các năm nhưng chủ yếu là các dự án với quy mô nhỏ, ít các dự án lớn và có trình độ công nghệ cao, do đó chưa đáp ứng yêu cầu về chuyển giao công nghệ, các dự án công nghệ nguồn hay các dự án công nghiệp phụ trợ. Bốn là, thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao và chất lượng đào tạo lao động còn thấp. Vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực còn ít nên nguồn nhân lực được đào tạo có tay nghề và trình độ cao phục vụ cho các dự án lớn bị thiếu hụt. Bên cạnh đó việc phát triển nguồn nhân lực cũng chưa thực sự được chú trọng nên chất lượng đào tạo lao động còn chưa cao. Trong gần 43.860 lao động thì lao động nữ chiếm 30.702 người (70%), trình độ đại học, cao đẳng chiếm 5,78% còn lại hơn 90% là lao động phổ thông. Năm là, hoạt động đầu tư bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Phần lớn các KCN, CCN trên địa bàn chưa có nhà máy xử lý nước thải, bên cạnh đó việc huy động các nguồn vốn cho đầu tư xử lý nước thải cũng gặp rất nhiều khó khăn. Điển hình như nhà máy xử lý nước thải tập trung của KCN Thụy Vân được xây dựng chủ yếu từ nguồn vốn vay ODA (80%), còn lại là ngân sách địa phương, tuy nhiên tốc độ giải ngân vốn ODA chậm, vốn ngân sách còn chưa được cân đối nên thời gian xây dựng kéo dài (khởi công từ 2014 và đến năm 2018 mới đi vào hoạt động chính thức). Các KCN, CCN khác cũng chưa có nhà máy xử lý nước thải và đang trong quá trình kêu gọi đầu tư. Bên cạnh đó công tác đầu tư bảo vệ môi trường KCN, CCN của các doanh nghiệp trong KCN, CCN cũng chưa được thực hiện nghiêm chỉnh. Một số doanh nghiệp còn chưa tuân thủ nghiêm túc về pháp luật môi trường, xử lý nguồn chất thải nguy hại như dầu, mỡ, hóa chất,... chưa đúng với quy định. 4. Kết luận Trong những năm qua, tỉnh Phú Thọ cũng đã có rất nhiều nỗ lực trong việc phát triển các KCN, CCN. Tuy nhiên, quá trình phát triển các KCN, CCN vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Trên cơ sở phân tích tình hình phát triển các KCN, CCN, làm rõ những hạn chế và nguyên nhân, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ như: Một là, đa dạng hóa nguồn vốn cho đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN, CCN. Tăng cường và đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, CCN trong đó phát huy tối đa các hình thức hợp tác công tư; Đầu tư xây dựng đồng bộ và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài KCN, CCN; Đầu te xây dựng đồng bộ và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN, CCN. Hai là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển các KCN, CCN. Quy hoạch phát triển KCN, CCN phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương, vùng, lãnh thổ và quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp; Quy hoạch KCN, CCN cần phải tính đến sự phát triển bền vững của KCN, CCN; Quy hoạch ngành nghề và lĩnh vực hoạt động của KCN, CCN; Quy hoạch xây dựng đồng bộ hạ tầng trong và ngoài KCN, CCN. Ba là, tăng cường xúc tiến đầu tư vào các KCN, CCN. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và đối tác đầu tư; Nâng cao chất lượng quy hoạch và danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư; Đổi mới, đa dạng hóa các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư; Nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư; Tăng cường hợp tác song phương và đa phương về xúc tiến đầu tư. Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Xác định rõ phương hướng và mục tiêu đào tạo để phù hợp với nhu cầu thực tế của 33 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 23-33 các doanh nghiệp ở hiện tại và trong tương lai; Đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở đào tạo; Đa dạng hóa loại hình đào tạo; Hoàn thiện chính sách đãi ngộ người lao động. Năm là, tăng cường đầu tư bảo vệ môi truờng tại các KCN, CCN. Tập trung nâng cao chất lượng công tác thẩm định nhất là về yếu tố môi trường khi thẩm định hồ sơ thành lập KCN, CCN. Bên cạnh đó định hướng thu hút đầu tư vào KCN, CCN theo hướng ưu tiên những ngành công nghiệp sạch, ít ô nhiễm. Những dự án có cùng ngành nghề và gây ô nhiễm cao nên được bố trí vào một KCN, CCN để thuận tiện cho công tác xử lý chất thải. Tài liệu tham khảo [1] Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ (2015- 2020). Báo cáo tổng kết của Ban quản lý các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tỉnh Phú Thọ. [2] UNIDO (1997). Industrial Estates: Principles and Practices. Vienna. [3] Douglas Z. Z. (2016). Special Economic Zones: Lessons from the Global Experience. PEDL Synthesis Paper No. 1 | Special Economic Zones: Lessons from the Global Experience. [4] Chính phủ (2018). Nghị định 82/2018/NĐ-CP: Quy định về quản lý khu công nghiệp. [5] UNIDO (1995). Industrial Clusters and Networks: Case study of SME Growth and innovation. Vienna. [6] Chính phủ (2017). Nghị định số 68/2017/NĐ-CP về quản lý, phát triển cụm công nghiệp. [7] Jeffrey L. Furman, Michael E. Porter, & Scott Stern (2002). The determinants of national innovative capacity. Research Policy, 31, 899- 933. [8] Holländer R., Chunyou W. & Ning D. (2009). Sustainable Development of Industrial Parks. 2. University of Leipzig, Germany. [9] Phan Mạnh Cường (2015). Phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Luận án tiến sĩ kinh tế. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. DEVELOPMENT OF INDUSTRIAL ZONES AND INDUSTRIAL CLUSTERS IN PHU THO PROVINCE Pham Phuong Thao1, Nguyen Trong Tai2 1Faculty of Economics and Business Administration, Hung Vuong University, Phu Tho 2Faculty of Finance and Banking, Hanoi Open University, Hanoi Abstract The establishment of industrial zones and clusters is one of the important solutions to promote industrialization, modernization and social-economic development of the country. Phu Tho was an province that built and developed early industrial zones. Over the past years, the province has also tried to run industrial zones therefore obtained some positive results. However, there are still some drawbacks of planning, synchronizing infrastructure, income of workers, wastewater treatment system,... This study is conducted to clarify the development situation of industrial zones and clusters in Phu Tho province in the period 2015-2020 and since then, pointing out the shortcomings and giving some solutions to promote the development of the industrial zones and clusters by 2025 and 2030. Keywords: Development, industrial zones, industrial clusters, Phu Tho.
File đính kèm:
- phat_trien_cac_khu_cong_nghiep_cum_cong_nghiep_tren_dia_ban.pdf