Phát triển các định chế tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ứng phó đại dịch Covid-19
Định chế tài chính phi ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính được thực hiện một hoặc một
số hoạt động dịch vụ tài chính theo quy định của pháp luật, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của
cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Định chế tài chính
phi ngân hàng bao gồm: công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ
bảo hiểm, công ty mua bán nợ, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty tín dụng
tiêu dùng, công ty dịch vụ thẻ, ví điện tử và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. Bài viết tập
trung phân tích, làm rõ thực trạng nói trên, đề xuất một số khuyến nghị.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Phát triển các định chế tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ứng phó đại dịch Covid-19", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển các định chế tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ứng phó đại dịch Covid-19
Quỹ bảo lãnh tín dụng (QBLTD) được thành lập và đi vào hoạt động, với tổng vốn điều lệ thực có khoảng trên 1.400 tỷ đồng, trong đó có đến hơn 1.300 tỷ đồng là vốn ngân sách. Tính đến cuối năm 2017, các quỹ mới chỉ bảo lãnh được trên 4.100 tỷ đồng vốn vay trong tổng số 1,3 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tỷ lệ bảo lãnh chỉ tương đương 3,2% tổng dư nợ tín dụng, nhưng đến nay, các QBLTD đã phải trả nợ thay cho doanh nghiệp với tỷ lệ lên đến 8,6% trong số nợ được bảo lãnh. Theo SSI (2015 - 2021). Theo quy định tại Nghị định số 34/2018/ NĐ-CP của Chính phủ, vốn điều lệ tối thiểu của Quỹ là 100 tỷ đồng do Nhà nước cấp. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động, hầu hết vốn điều lệ của các quỹ chưa đảm bảo được mức quy định, thậm chí có quỹ chỉ có 15 tỷ đồng do ngân sách tỉnh cấp, trong khi theo quy định thì giới hạn tối đa bảo lãnh vay vốn cho một doanh nghiệp là 15% vốn điều lệ thực có của quỹ, nhưng phần lớn nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp cao hơn mức quỹ bảo lãnh. Theo SSI (2015 - 2021). KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 264 Quy mô vốn điều lệ thấp, nhiều tỉnh khó khăn về cân đối ngân sách nên không thể đưa vốn sang, khả năng bảo lãnh thấp, kết quả bảo lãnh quá nhỏ, số nợ quá hạn của doanh nghiệp mà Quỹ phải trả thay quá cao,... hiệu quả của Quỹ rõ ràng có vấn đề cần được xắp xếp lại theo hướng tinh gọn và thực chất. 5.2. Quỹ đầu tư phát triển địa phương Chính phủ đã ban hành Nghị định số 138/2007/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển địa phương và Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 37/2013/ NĐ-CP ngày 22/4/2013. Theo SSI (2015-2021). Triển khai các quy định nói trên, đã có 44 địa phương thành lập Quỹ đầu tư phát triển địa phương (ĐTPTĐP) với mục tiêu huy động các nguồn vốn trung và dài hạn để thực hiện cho vay, đầu tư trực tiếp các dự án trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tại địa phương. Đến 31/12/2018, số dư nguồn vốn hoạt động của hệ thống Quỹ là 34.980 tỷ đồng, gấp 5 lần so với năm 2007. Về cơ cấu, vốn chủ sở hữu chiếm 79% và vốn huy động chiếm 21%. Vốn huy động của các Quỹ ĐTPTĐP tương đương 26% vốn chủ sở hữu. Về sử dụng vốn, tính đến 31/12/2018, tổng vốn sử dụng cho các hoạt động cho vay, đầu tư trực tiếp và góp vốn thành lập doanh nghiệp của hệ thống Quỹ ĐTPTĐP là 18.111 tỷ đồng, gấp 5 lần so với năm 2007, trong đó hoạt động cho vay đầu tư cơ sở hạ tầng là 14.084 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu sử dụng vốn của Quỹ (chiếm 77,7%). Theo SSI (2015 - 2021). Nguồn vốn cho vay và đầu tư của Quỹ ĐTPTĐP đã phát huy hiệu quả, từ đó huy động các nguồn vốn khác tham gia vào việc đầu tư cơ sở hạ tầng tại địa phương. Theo đó, tổng lợi nhuận của toàn hệ thống Quỹ ĐTPTĐP đến 31/12/2018 là 1.268 tỷ đồng, tăng 4 lần so với năm 2007. Hoạt động của hệ thống Quỹ ĐTPTĐP có tăng trưởng về quy mô, nguồn vốn hoạt động, góp phần vào việc huy động các nguồn lực tài chính cho đầu tư cơ sở hạ tầng tại địa phương. Đến nay chưa có số liệu chính thức về kết quả hoạt động của các Quỹ ĐTPTĐP đến hết năm 2019, nhưng chắc chắn là quy mô vốn không tăng quá 10% so với năm 2018 và 1/3 số tỉnh, thành phố vẫn chưa thành lập được. Theo SSI (2015 - 2021). 6. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia Có chức năng tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ Việt Nam trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm); giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường tài chính quốc gia. Các chức năng cụ thể là: + Điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành; giám sát chung thị trường tài chính và việc chấp hành các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động giám sát của các cơ quan thanh tra - giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Giám sát điều kiện được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. + Phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng và nguy cơ rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia; thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và cung cấp các thông tin về thị trường tài chính quốc gia báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Kiến nghị với các cơ quan thanh tra - giám sát chuyên ngành và cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân không chấp hành hoặc không thực hiện đầy đủ các điều kiện trong hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.... KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 265 7. Bảo hiểm xã hội Việt Nam Tổ chức này trực tiếp quản lý và sử dụng các quỹ: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Mặc dù trực thuộc Chính phủ, nhưng Bảo hiểm xã hội Việt Nam lại do 3 Bộ quản lý các mảng cụ thể khác nhau: Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế. 8. Một số bộ ngành khác Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý Quỹ hỗ trợ đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề nông nghiệp – nông thôn. Ủy ban dân tộc và Hội nông dân Việt Nam cũng được giao một số Quỹ hỗ trợ nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn viện trợ nước ngoài,... 9. Kết luận và khuyến nghị giải pháp Các định chế tài chính phi ngân hàng hoạt động có hiệu quả trên thị trường tài chính góp phần cho Chính phủ thực hiện được kế hoạch huy động vốn hàng năm trong nước cho đầu tư phát triển. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường, tiếp tục phát triển các tổ chức định chế tài chính phi ngân hàng nói chung và thị trường tài chính Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ. Bên cạnh đó, tinh giản bộ máy, tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực ngân sách nhà nước, chống thất thoát và lãng phí chi tiêu công, được nêu trong các Nghị quyết của Đảng và Chính phủ tiếp tục là những vấn đề lớn cần được nghiêm túc triển khai đồng bộ. Với thực trạng quản lý, hoạt động của các định chế tài chính phi ngân hàng, trong bối cảnh diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính quốc tế và trong nước bởi sự tác động lớn của dịch bệnh toàn cầu COVID-19 và giảm sâu của giá dầu thô, mặc dù đến đầu tháng 3/2021 đã tăng lên mức cao nhất trong 10 tháng qua, bài viết xin đưa ra một số kiến nghị sau: Một là, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia chỉ là cơ quan tư vấn, không trực tiếp quản lý nhà nước bất kỳ định chế tài chính nào hay quản lý thị trường tài chính. Trong khi đó, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đi vào hoạt động từ năm 2018, đang gặp nhiều khó khăn, đội ngũ cán bộ và những quy định pháp lý để đảm bảo cho Ủy ban thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của mình. Khối lượng công việc ngày càng nhiều, công việc mới, nhiều người chưa quen việc, các quy định chưa rõ ràng, cùng với đó lại đang nhận bàn giao 12 dự án thua lỗ từ Bộ Công thương,... đặt ra nhiều thách thức cho Ủy ban này. Bởi vậy cần được nghiên cứu sát thực tiễn hơn đảm bảo tính hợp lý và tổ chức và hoạt động của 2 cơ quan này. Hai là, theo quy định hiện tại thì phạm vi xử lý nợ, tái cơ cấu doanh nghiệp của DATC chỉ tập trung ưu tiên cho khối DNNN thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở hữu. Tuy nhiên, số lượng DNNN cần thực hiện sắp xếp không còn nhiều (240 doanh nghiệp), trong khi đó quy mô nợ xấu và số lượng các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bao gồm cả khối doanh nghiệp FDI (có vốn đầu tư nước ngoài) cần sự hỗ trợ xử lý nợ, tái cơ cấu của DATC trong thời gian tới ngày càng tăng, kể cả về quy mô và số lượng. Như vậy, đối tượng phục vụ của DATC không chỉ có các DNNN mà sẽ bao gồm khu vực tư nhân với tính chất sở hữu và hoạt động khác hẳn so với DNNN, nên đòi hỏi phải có những quy định pháp lý mới cho DATC hoạt động phù hợp hơn. Do sự thay đổi dần về phạm vi hỗ trợ của DATC cùng với nhu cầu xử lý nợ xấu vẫn cấp bách, đòi hỏi phải có những thay đổi theo hướng nâng cao năng lực pháp lý cho DATC và những thay đổi này cần được thể chế bằng văn bản quy phạm đủ mạnh dưới hình thức văn bản pháp lý cao hơn ở KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 266 cấp nghị định để DATC có thể tổ chức triển khai một cách có hiệu quả và tránh rủi ro về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện. Ngoài ra còn có nhiều vướng mắc về cơ chế, trình tự, thủ tục xử lý nợ xấu của doanh nghiệp tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam... Trong khi đó, sự ra đời và hoạt động của VAMC, đều là tổ chức tín dụng của Nhà nước. Đến nay có gần 30 tổ chức tín dụng đã mua lại toàn bộ nợ đã bán cho VAMC. Do đó cũng cần được nghiên cứu bảo đảm tính hiệu quả lâu dài của hai tổ chức này trong điều kiện tiết kiệm chi phí cho NSNN, đánh giá thực trạng kết quả phát mại tài sản thu hồi nợ của VAMC. Ba là, đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam, việc quản lý chặt chẽ các hoạt động khám chữa bệnh để phòng ngừa các trường hợp trục lợi bảo hiểm y tế và quản lý tiền nhàn rỗi thu được từ các nguồn bảo hiểm sao cho có hiệu quả đang tiếp tục cần được sự quan tâm nhiều hơn nữa. Bên cạnh đó, trong điều kiện công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ hiện nay cũng cần được tiếp tục đầu tư toàn diện hơn nữa việc áp dụng vào trong quản lý các quỹ bảo hiểm. Việc sử dụng các Quỹ bảo hiểm để đầu tư trên thị trường tài chính đảm bảo hiệu quả cao, tạo thêm nguồn lực tài chính theo thông lệ quốc tế cũng cần được nghiên cứu cụ thể hơn nữa. Bốn là, đối với Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF). Đến hết năm 2019 và cho đến nay, số tiền ủy thác chắc chắn có thay đổi, nhưng con số quá nhỏ bé, không bằng số vốn cho vay của một chi nhánh NHTM cấp huyện, vì vậy cần được đánh giá về tính hiệu quả của tổ chức này, giảm chi phí của ngân sách nhà nước, tinh giản bộ máy, cần nghiên cứu chuyển chức năng này cho Ngân hàng phát triển Việt Nam. Đối với Quỹ đầu tư phát triển địa phương, đến nay tại nhiều địa phương chưa thành lập được Quỹ này, bên cạnh đó nhiều tỉnh khác Quỹ này cũng hoạt động rất khó khăn, quy mô nhỏ, tất cả cần được đánh giá khách quan, thẳng thắn để đảm bảo nguồn lực tập trung của tài chính nhà nước cũng như sự phát triển của thị trường tài chính. Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cần đánh giá sát, khách quan hiệu quả hoạt động của Quỹ đầu tư địa phương, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, đứng trên hiệu quả chung của nền kinh tế để có đề suất mạnh dạn đối với Chính phủ và Quốc hội theo hướng sáp nhập. Bởi trên thực tế, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai thời gian qua cho thấy hệ thống Quỹ ĐTPTĐP phát triển còn nhiều bất cập. Năng lực hoạt động của các Quỹ ĐTPTĐP vẫn còn hạn chế do nguồn vốn hoạt động còn thấp. Một số địa phương còn chưa bố trí đủ nguồn vốn điều lệ tối thiếu. Nguồn vốn hoạt động hạn chế đã ảnh hưởng tới việc triển khai các nghiệp vụ của Quỹ ĐTPTĐP, hầu hết các Quỹ mới chỉ tập trung vào hoạt động cho vay dự án, chỉ một số ít Quỹ có nguồn lực để triển khai nghiệp vụ đầu tư, do đó chưa phát huy được vai trò là nguồn vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác trong xã hội cùng tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng. Bên cạnh đó, mức lãi suất cho vay tối thiểu chưa phản ánh được đầy đủ chi phí, tỷ lệ nợ xấu ở mức cao của một số Quỹ chưa được xử lý dứt điểm, hoạt động đầu tư trực tiếp chưa được đẩy mạnh, cơ chế trích lập dự phòng rủi ro cho vay, đầu tư cần được hoàn thiện. Về hoạt động cho vay, xuất phát từ thực tế tỷ lệ nợ xấu ở một số Quỹ ở mức cao, mức lãi suất tối thiểu được UBND một số địa phương quy định ở mức thấp, chưa phản ánh được đầy đủ chi phí trong lãi suất cho vay. Năm là, do ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế và suy giảm của thị trường tài chính hiện nay, nhiều công ty chứng khoán trong nhiều năm không tăng được vốn điều lệ, đang kinh doanh gặp KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 267 nhiều khó khăn, thị phần môi giới thấp, thậm chí bị thua lỗ, đòi hỏi phải tiếp tục tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các tổ chức này. Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần có các biện pháp cụ thể để thị trường chứng khoán tiếp tục phát triển cả về quy mô và chất lượng, là kênh huy động và dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế, cần ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua. Ngoài ra, cần đẩy nhanh việc cơ cấu lại thị trường chứng khoán theo Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025” theo Quyết định số 242/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (ngày 28/2/2019). Triển khai các biện pháp tái cơ cấu mới các Công ty chứng khoán bị ảnh hưởng lớn của giai đoạn suy giảm kinh tế và thị trường tài chính hiện nay bởi dịch COVID-19 và tụt giảm của giá dầu thô. Sáu là, NHNN thúc đẩy tiến độ tái cơ cấu các Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quản lý chặt chẽ các công ty tài chính tiêu dùng và rà soát lại các quy định hoạt động, quản lý các công ty dịch vụ thẻ, các trung gian thanh toán, ví điện tử. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. CTCK (2018 - 2020), Tổng hợp từ Báo cáo tài chính năm 2019 và quý IV/2020 của các Công ty chứng khoán, thời gian truy cập từ 1/2/2021 đến 10/3/2021. 2. HNX (2019 - 2021), Số liệu về giao dịch thị trường hàng ngày tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, truy cập tại: www.hnx.vn, thời gian truy cập từ 1/2/2021 đến 10/3/2021. 3. HoSE (2015 - 2020), Số liệu về giao dịch thị trường hàng ngày tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM; truy cập tại: www.hose.vn, thời gian truy cập từ 1/2/2021 đến 10/3/2021. 4. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2020), Thông tin hoạt động các ngân hàng hội viên”; truy cập tại www.vnba.org.vn; thời gian truy cập, từ ngày 16-18/2/2021. 5. Ngân hàng thương mại (2020), Báo cáo tài chính, Báo cáo gửi cổ đông, thông tin hoạt động, tổng hợp từ trang web của các NHTM, hết tháng 9/2020, thời gian truy cập từ ngày 11-15/2/2021. 6. Ngân hàng Nhà nước (2020), Thông tin và tư liệu được truy cập tại mục: Tin tức- Sự kiện, trang www.sbv.gov.vn, thời gian truy cập, từ ngày 16-18/2/2021. 7. VNDIRECT (2018-2020), Báo cáo nghiên cứu thị trường tài chính hàng tháng, các tháng trong các năm 2018 – 2020 của Công ty chứng khoán VN Direct gửi các nhà đầu tư chứng khoán mở tài khoản tại Công ty, file mềm. 8. Vietcombank (2015 - 2020), Thông tin hoạt động của Vietcombank tại Báo báo thường niên, báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm, thông tin công bố trên www.vcb.com.vn, các năm 2015 - 2020, thời gian truy cập từ ngày 16-18/2/2021. 9. SSC (2018 - 2020), Thông tin về hoạt động của các công ty chứng khoán và thị trường chứng khoán, truy cập tại www.ssc.gov.vn, thời gian truy cập, từ ngày 16-18/2/2021. 10. SI (2015 - 2021), Báo cáo phân tích thị trường tài chính hàng tháng; các tháng trong các năm 2015 – 2020 và đến tháng 3/2021, Công ty CP chứng khoán Sài Gòn - file mềm gửi qua thư điện tử cho các Nhà đầu tư mở tài khoản tại SSI, Hà Nội, 2015 - 2021.
File đính kèm:
- phat_trien_cac_dinh_che_tai_chinh_phi_ngan_hang_o_viet_nam_h.pdf