Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế

Nợ xấu của hệ thống ngân hàng thể hiện chất lượng hoạt động của các định chế tài chính cho

vay vốn nhưng cũng phản ánh tăng trưởng nền kinh tế, bởi nợ xấu tăng cao cho thấy hiệu quả hoạt

động của các ngân hàng thương mại (NHTM), của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hộ gia đình

giảm sút. Trước đại dịch COVID-19, ngành Ngân hàng đã tập trung xử lý nợ xấu có kết quả tích

cực theo một số cơ chế chính sách đặc thù đó là Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội. Trong

năm 2020, nợ xấu cũng chưa thể hiện đầy đủ do được che giấu bởi Thông tư 01/2020/TT-NHNN

của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành ngày 13/3/2020. Đến nay, dịch COVID-19 cơ bản

đã được kiểm soát ở nước ta nhưng vẫn diễn ra phức tạp trên thế giới, do đó, dịch tiếp tục ảnh

hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Tới đây, một số cơ chế, chính sách đặc thù sẽ hết thời hạn,

nợ xấu sẽ được thể hiện đầy đủ và tăng lên, ảnh hưởng lớn đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng

trưởng GDP.

Tác giả nghiên cứu về vấn đề thực tiễn, có tính thời sự của nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên,

do giới hạn của một bài viết nên tác giả không có điều kiện sử dụng phương pháp định lượng,

xây dựng nền tảng lý thuyết, làm rõ tổng quan và đặt câu hỏi nghiên cứu. Với chủ đề và nội dung

nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp định tính truyền thống, tổng quan tài liệu thứ cấp và

phân tích, so sánh số liệu thứ cấp của các cơ quan chức năng và của các ngân hàng, đánh giá,

nhận xét làm rõ các vấn đề nói trên, từ đó đưa ra các khuyến nghị và giải pháp.

Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế trang 1

Trang 1

Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế trang 2

Trang 2

Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế trang 3

Trang 3

Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế trang 4

Trang 4

Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế trang 5

Trang 5

Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế trang 6

Trang 6

Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 2820
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế

Phân tích và dự báo diễn biến nợ xấu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tác động đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng nền kinh tế
n Thông tư số 01/2020/
TT-NHNN, ban hành ngày 13/3/2020 của NHNN, tiến hành cơ cấu lại nợ, điều chỉnh kỳ hạn 
trả nợ, giãn nợ cho khách hàng do ảnh hưởng của COVID-19. Tuy nhiên đến hết năm 2020, khi 
Thông tư số 01/2020/TT-NHNN hết hiệu lực thi hành, các khoản nợ được cơ cấu lại sẽ bộc lộ nợ 
xấu, do đó, dự báo đến tháng 3/2021 sẽ tăng lên khoảng 2,3% và hết tháng 6/2021 tỷ lệ nợ xấu 
của các TCTD sẽ tiếp tục tăng lên ở mức 2,55% - 2,6%. Việc triển khai Basel II tiếp tục được 
các TCTD tập trung thực hiện để đáp ứng các thông lệ quốc tế về an toàn vốn. Tình trạng sở hữu 
chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý một bước quan trọng, tình trạng cổ 
đông, nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối hoạt động ngân hàng TMCP về cơ bản được kiểm 
soát. Kỷ cương, kỷ luật trên thị trường tiền tệ và lĩnh vực ngân hàng được chấn chỉnh và nâng 
cao, góp phần ổn định, bảo đảm an ninh tài chính - tiền tệ.
3. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CỤ THỂ DỰ BÁO NỢ XẤU SẼ GIA TĂNG SAU ĐẠI DỊCH 
COVID-19 ẢNH HƯỞNG LỚN ĐẾN KHẢ NĂNG CUNG ỨNG VỐN TÍN DỤNG CỦA HỆ THỐNG 
NGÂN HÀNG GÓP PHẦN THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Một	là,	tác	động	của	Thông	tư	số	01/2020/TT-NHNN đến	xử	lý	nợ	xấu	và	dự	báo	nợ	xấu	
được	thể	hiện	một	cách	thực	chất	trong	giai	đoạn	“hậu	COVID-19”	sau	khi	Thông	tư	này	hết	
hiệu	lực	thi	hành.
Trước tác động của dịch COVID-19, ngày 13/3/2020, NHNN đã ban hành Thông tư số 
01/2020/TT-NHNN quy định, hướng dẫn TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi chung là 
TCTD) cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách 
hàng. Đây là một trong những yếu tố tác động đến diễn biến nợ xấu của ngân hàng trên báo cáo 
tài chính.
Triển khai quyết liệt việc thực hiện Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của NHNN đã giúp một 
số doanh nghiệp không bị chuyển nhóm nợ thành nợ xấu, để tiếp tục vay vốn mới tại NHTM. Tuy 
nhiên, điều này cũng đẩy rủi ro về phía ngân hàng. Bởi vì nợ xấu phát sinh thực chất vẫn tồn tại, 
Thông tư số 01/2020/TT-NHNN khiến một phần nợ xấu không thể hiện trên báo cáo tài chính. 
Việc cho phép cơ cấu lại nợ cho khách hàng theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN chỉ giúp các 
TCTD và doanh nghiệp vay vốn trì hoãn thời điểm chịu tác động lớn nhất của dịch COVID-19 
đến phát sinh tỷ lệ nợ xấu, chứ không giải quyết được nợ xấu bị che giấu chắc chắn sẽ xảy ra 
sau khi hết thời hạn cơ cấu lại nợ. Cho dù nhiều NHTM đã chủ động trích lập dự phòng, tích 
cực xử lý nợ xấu ngay cả trong thời gian được phép cơ cấu lại nợ để tạm thời che giấu nợ xấu 
nhưng không giải quyết được tận gốc nợ xấu và sau đó sẽ được thể hiện đầy đủ trong báo cáo tài 
chính của NHTM. Điều này một phần là bởi quy mô nợ xấu và tiềm lực tài chính cho trích lập 
dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu có sự khác nhau và chênh lệch đáng kể giữa các ngân hàng và 
nhóm NHTM. Mặt khác, vì phải chạy theo chỉ tiêu bảo đảm kế hoạch kinh doanh được giao, nên 
nhiều NHTM sẽ có xu hướng giấu nợ xấu tối đa trên cơ sở được phép bởi quy định tại Thông 
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
467
tư 01/2020/TT-NHNN. Cũng chính vì lý do này nên nếu tiếp tục sửa đổi Thông tư 01/2020/TT-
NHNN, nợ xấu chắc chắn sẽ tiếp tục tăng mạnh.
Nếu các NHTM tiếp tục che giấu nợ để tăng cường cho vay doanh nghiệp và nền kinh tế thì 
không thể phủ định được khả năng doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ phục hồi nhanh hơn và nợ 
xấu ngân hàng nhờ đó cũng sẽ được xử lý nhanh hơn. Nhưng quá trình này, theo lý thuyết, có thể 
sẽ tốn rất nhiều thời gian. Còn về thực tiễn, chất lượng tăng trưởng GSP không đảm bảo, không 
bền vững.
Trước đại dịch COVID-19, các TCTD tại Việt Nam đã tập trung xử lý nợ xấu tích tụ từ gần 
10 năm qua một cách rất khó khăn bởi vướng mắc nhiều quy định pháp luật vừa thiếu, vừa chồng 
chéo, vừa không rõ ràng. Cho đến khi có các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai thí điểm 
theo cách đặc biệt (theo định trong Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội và Quyết định số 
1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Chính phủ) thì việc xử lý nợ xấu đã có kết quả rất rõ rệt. Bên 
cạnh đó, với sự ra đời và đi vào hoạt động của Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản các TCTD 
Việt Nam (VAMC), kết quả xử lý nợ xấu lại càng tích cực hơn. Song, từ tháng 2/2020 đến nay, 
khi một lần nữa nền kinh tế Việt Nam lại rơi vào khó khăn do đại dịch COVID-19 thì tỷ lệ nợ xấu 
đang gia tăng trở lại và công cụ VAMC cũng đang giảm dần tác dụng.
Ngay cả trong giai đoạn trước đại dịch COVID-19, việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 
về xử lý nợ xấu cũng vẫn có nhiều vướng mắc pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm 
tiền vay thu hồi của khách hàng không trả được nợ cho NHTM. Trên thực tế, để xử lý được 
những vướng mắc pháp lý này, cần phải sửa đổi đồng bộ nhiều luật như: Luật Nhà ở, Luật Đầu 
tư, Nghị quyết số 42/2017/QH14... Điều chắc chắn là để cho đến khi không còn vướng mắc nữa 
thì bản thân những Luật sửa đổi này cũng sẽ phải được sửa đổi thêm.
Với thời gian dự kiến kéo dài để xử lý khối nợ xấu của các TCTD tích tụ từ gần 10 năm qua 
và dồn lại sau đại dịch COVID-19, triển vọng xử lý nợ xấu sẽ lại càng trở nên khó khăn hơn, nếu 
kinh tế vĩ mô trong nước gặp phải những diễn biến bất thường mới và kinh tế thế giới lại phải 
đối mặt với đại dịch COVID-19 diễn ra phức tạp, kéo dài như hiện nay, cũng như đối mặt những 
khó khăn mới, là điều không thể dự báo chính xác trước.
Trên hết, việc giấu nợ xấu, làm đẹp bảng cân đối tài chính của các NHTM còn được đi kèm 
với những giải pháp không được khuyến khích như: chậm hay trì hoãn áp dụng các chuẩn mực 
mới của quốc tế đã được nhiều nước áp dụng. Ví dụ như: Tiêu chuẩn Kế toán quốc tế IFRS 9, 
trong khi Việt Nam vẫn áp dụng Chuẩn Kế toán VAS của riêng mình. Việc chậm trễ này sẽ để lại 
những hậu quả tương tự như việc chậm trễ áp dụng các chuẩn mực an toàn của Basel II và cao 
hơn tại các TCTD Việt Nam.
Vì vậy, với những khó khăn bất thường mới trong xử lý nợ xấu của các NHTM khi được che 
giấu như trên, NHNN cần nghiên cứu xem lại chủ trương về việc sửa đổi, gia hạn Thông tư số 
01/2020/TT-NHNN, một lần nữa, cho phép các NHTM tiếp tục cơ cấu lại nợ, gia hạn nợ cho 
khách hàng vay vốn không trả được nợ. Hoặc những giải pháp tương tự trong tương lai mỗi khi 
nền kinh tế đối mặt với một cú sốc nào đó từ chính trong nước hay từ bên ngoài. Sự bắt buộc phải 
thẳng thắn dẫn đến các TCTD phải đối mặt với nợ xấu ngay khi chúng phát sinh sẽ không chỉ 
tăng thêm tính minh bạch, lành mạnh của hệ thống TCTD mà còn giúp cho các TCTD có thêm 
động lực để xử lý nợ xấu sớm trong khả năng có thể.
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
468
Quá trình xử lý sớm và triệt để nợ xấu tất nhiên sẽ gây ra những hậu quả lập tức cho doanh 
nghiệp, TCTD và cả nền kinh tế. Nhiều doanh nghiệp không thể vay được vốn để tiếp tục hoạt 
động, người lao động không có việc làm. Nhiều TCTD có nợ xấu tăng cao, không được NHNN 
tăng hạn mức tín dụng, ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP thời điểm trước mắt. Tuy nhiên, đứng 
trên quan điểm phát triển bảo đảm chất lượng và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô thì không nên 
đánh đổi sự lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế trong dài hạn lấy một vài 
điểm phần trăm tăng trưởng GDP trong ngắn hạn. Điều này cũng được thể hiện khá rõ trong chủ 
trương của Chính phủ trong báo cáo cuối năm 2020 khi đánh giá về kết quả tái cơ cấu nền kinh tế, 
trong đó có mục tiêu đến năm 2020, giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng xuống 
mức dưới 3% (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, 2020). 
Rõ ràng, Chính phủ đã nhìn thấy trước diễn biến của nợ xấu của thời kỳ “hậu COVID-19” sẽ 
tăng mạnh so với tỷ lệ 1,96% cho đến hết tháng 8/2020, mặc dù không có con số công bố chính 
thức, đầy đủ của NHNN về tỷ lệ nợ xấu thực chất đến thời điểm hết năm 2020. Tác động tiêu cực 
của đại dịch COVID-19 ngay từ đầu năm 2020 đã cho sản xuất bị đình trệ, nhu cầu hàng hóa và 
dịch vụ sụt giảm, dẫn đến các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề, tình trạng nợ xấu có thể gia tăng.
Hai	là,	cơ	chế	đặc	thù	về	thí	điểm	xử	lý	nợ	xấu	theo	Nghị	quyết	số	42/2017/QH14	của	Quốc	hội	
sẽ	hết	thời	hạn	thi	hành	sẽ	làm	cho	nợ	xấu	tăng	trở	lại.	
Việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD cho 
thấy những kết quả quả quan, nhưng hiện nay đang chùng xuống nếu không nói là “giẫm châm 
tại chỗ”. Nghị quyết này tạo cơ chế đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, khả thi nhằm đảm bảo quyền 
của chủ nợ trong xử lý nợ xấu, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD phát huy tốt vai trò 
là kênh dẫn vốn chủ đạo, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh 
tế. Các TCTD vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) của 
khoản nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14; thực hiện quyền áp dụng thứ tự ưu 
tiên thanh toán nghĩa vụ về thuế khi xử lý TSBĐ và nộp án phí theo bản án, quyết định của Tòa 
án các cấp, sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng ở địa phương trong phát mại tài sản, 
thu hồi vốn, đăng ký tài sản cho người mua
Nghị quyết số 42/2017/QH14 chỉ mang tính chất thí điểm, có hiệu lực 5 năm kể từ ngày 15/8/2017. 
Do đó, giai đoạn nền kinh tế “hậu COVID-19”, sau thời điểm Nghị quyết số 42/2017/QH14 hết hiệu 
lực vào 15/8/2022, nếu không có văn bản thay thế thì có thể làm quá trình xử lý TSBĐ tiền vay 
của các khoản nợ xấu bị kéo dài, các nhà đầu tư mua, bán nợ xấu nghi ngại về khả năng xử lý các 
khoản nợ đã mua để thu hồi vốn.
Ba	là,	xử	lý	nợ	xấu	qua	VAMC	đã	giảm	dần	tác	dụng.
Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản các TCTD Việt Nam (VAMC) được thành lập và đi vào 
hoạt động từ năm 2013. Đây là một loại hình đặc thù nhằm quản lý nợ xấu và góp phần xử lý nợ 
xấu của các TCTD, có tác dụng lớn nhất giảm nợ xấu trên bảng cân đối tài chính các NHTM về 
mức an toàn và nếu thiếu thanh khoản được vay tái cấp vốn của NHNN bằng trái phiếu đặc biệt 
(TPĐB) bán nợ xấu cho VAMC. Lũy kế từ khi thành lập tính đến tháng 8/2020, VAMC đã mua 
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
469
nợ của các TCTD bằng TPĐB đạt 329.007 tỷ đồng, trong đó: mua nợ bằng TPĐB sau khi Nghị 
quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực đạt 67.612 tỷ đồng; mua nợ theo giá trị thị trường từ 2017 
đến 2020 đạt 8.341 tỷ đồng (NHNN, 2020).
Số nợ được mua có thời hạn 5 năm, tập trung chủ yếu trong các năm 2014 - 2015, đến năm 
2019 và năm 2020, TPĐB hết thời hạn, số nợ xấu mua hết thời hạn, các TCTD phải nhận lại nợ 
xấu. Thực tế nhiều NHTM đã mua lại toàn bộ nợ xấu đã bán cho VAMC, đã trích lập đầy đủ dự 
phòng rủi ro, đã tự bán tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ xấu. Tuy nhiên, thực chất mô hình 
VAMC cũng là che giấu nợ xấu cho các NHTM. Kết quả xử lý nợ xấu qua số liệu nói trên cho 
thấy, từ năm 2017 đến nay, VAMC chỉ mua được 20% số nợ xấu của cả giai đoạn 2013 - 2020, 
số nợ xấu mua được đã giảm mạnh. Hơn nữa, kết quả bán tài sản đảm bảo tiền vay của VAMC 
để thu hồi nợ đạt rất thấp, chỉ vài nghìn tỷ. Công cụ xử lý nợ xấu qua VAMC đang giảm dần vai 
trò, nợ xấu của các TCTD sẽ bộc lộ thực chất, đầy đủ ở giai đoạn “hậu COVID-19”, ảnh hưởng 
lớn đến cung ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế thời gian tới.
Bốn	là,	ảnh	hưởng	đến	khả	năng	cung	ứng	vốn	tín	dụng	cho	tăng	trưởng	kinh	tế.
Hiện nay mặc dù đã có thêm kênh trái phiếu doanh nghiệp và kênh thị trường cổ phiếu, nhưng 
vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế vẫn phụ thuộc lớn vào tăng trưởng vốn tín dụng ngân hàng. 
Thực tế, ngay cả các dự án FDI giải ngân thực hiện tại Việt Nam thì có tỷ trọng lớn là vay các 
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và vay các NHTM Việt Nam. Do đó, nợ xấu tăng lên, các 
NHTM sẽ bị áp hạn mức tín dụng chặt chẽ hơn, các doanh nghiệp phát sinh nợ xấu sẽ không vay 
được vốn tín dụng NHTM. Tình hình này đã làm cho tăng trưởng tín dụng của cả năm 2020 thấp 
nhất trong 7 năm gần đây, ở mức dưới 11%, dự báo năm 2021 cũng chỉ đạt khoảng 11% - 12%, 
thấp nhất trong nhiều năm qua.
Tính đến hết tháng 12/2020, dư nợ cho vay của các TCTD đối với nền kinh tế chỉ đạt khoảng 
8,56 triệu tỷ đồng. Tình hình này sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng GDP của năm 2021 vì 
sự tác động của vốn tín dụng thường có độ trễ, ít nhất là 6 tháng đến 1 năm (Hiệp hội Ngân hàng 
Việt Nam, 2020).
4. KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
Một là, các NHTM cần kiên quyết không hạ thấp tiêu chuẩn cho vay, bỏ qua các chuẩn mực 
về tín dụng, lỏng lẻo trong kiểm soát quy trình tín dụng trong toàn hệ thống. Các NHTM không 
khuyến khích các chi nhánh nôn nóng chạy theo chỉ tiêu khoán về dư nợ. Đặc biệt là các NHM 
cần hết sức thận trọng về quản lý chất lượng tín dụng, xem xét thực chất các khoản nợ của khách 
hàng với số liệu nợ xấu thể hiện trong báo cáo tài chính công bố công khai theo niên độ. Các 
NHTM cần mạnh tay trích lập dự phòng rủi ro tín dụng sát với thực chất các khoản nợ đã được 
cơ cấu lại.
Hai là, khi các chính sách thay đổi, sự tác động của dịch COVID-19 đến chất lượng tín dụng 
có độ trễ và không che giấu được nữa, ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng sẽ được phản ánh. 
Do đó, các NHTM cần chủ động trong trích lập dự phòng rủi ro cho dù lợi nhuận bằng 0 hay quá 
thấp, tiếp tục quyết liệt trong bán tài sản, thu hồi các khoản nợ xấu cũ và thận trọng đối với các 
khoản giải ngân mới đối với khách hàng tiền ẩn rủi ro.
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
470
Ba là, Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với NHNN trong xử lý vấn đề tăng 
vốn điều lệ của các NHTM Nhà nước, đặc biệt là việc tăng vốn điều lệ của Agribank từ nguồn 
ngân sách nhà nước theo Nghị quyết của Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV và theo Nghị định 
của Chính phủ, sớm có quyết định chính thức, cụ thể về số vốn điều lệ được tăng. Chính phủ cần 
chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan tiếp tục có các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các 
hộ kinh doanh cá thể để phục hồi sản xuất - kinh doanh, góp phần hạn chế nợ xấu.
Bốn là, Quốc hội cần tiếp tục quan tâm, hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ 
xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 nói riêng thông qua việc quyết định mục 
tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hằng năm của đất 
nước. Xem xét đến khía cạnh xử lý nợ xấu khi quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ 
quốc gia, đặc biệt là quy định liên quan đến thuế, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 
diễn biến phức tạp như hiện nay trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2020), Thông tin hoạt động các ngân hàng hội viên; truy cập 
tại www.vnba.org.vn; thời gian truy cập từ ngày 16 - 25/11/2021.
2. NHTM Việt Nam (2020), Báo cáo tài chính, Báo cáo gửi cổ đông, thông tin hoạt động tổng 
hợp từ trang web của các NHTM, tháng 3/2021; thời gian truy cập từ ngày 1 - 5/3/2021.
3. NHNN (2020), Thông tin và tư liệu, truy cập tại mục: Tin tức - Sự kiện, trang www.sbv.gov.
vn, thời gian truy cập từ ngày 16 - 24/02/2021.ss

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_va_du_bao_dien_bien_no_xau_do_anh_huong_cua_dich_c.pdf