Phân tích một số diễn biến tài chính quốc tế và trong nước tác động đến điều hành chính sách thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang tiếp tục tác động lớn đến kinh tế toàn cầu cũng như
nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các nghị quyết của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ
về tháo gỡ khó khăn, hạn chế những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, hỗ trợ cho tăng
trưởng theo mục tiêu đề ra, các bộ, ngành chức năng được phân công đã xây dựng và điều hành
chính sách kinh tế vĩ mô theo chức năng, phối hợp điều hành chủ động và linh hoạt, thúc đẩy
kinh tế Việt Nam đạt được các chỉ tiêu rất quan trọng trong năm 2020. Tuy nhiên, trong thời gian
tới, thị trường tài chính quốc tế và kinh tế - xã hội trong nước tiếp tục có những diễn biến phức
tạp, khó lường. Bằng phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống, sử dụng tư liệu và số liệu
thứ cấp, phân tích và đánh giá, tác giả làm rõ những tác động lớn đến điều hành chính sách vĩ mô
trong thời gian tới và đưa ra các đề xuất khuyến nghị.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích một số diễn biến tài chính quốc tế và trong nước tác động đến điều hành chính sách thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô
hơn nhiều so với mức 7,5 tháng của ASEAN-4 và 14 tháng của Trung Quốc cho thấy rõ nhu cầu cần tăng dự trữ ngoại hối, trong khi việc Mỹ gắn mác “thao túng tiền tệ” có ảnh hưởng nhất định đến tiến trình tăng dự trữ ngoại hối này (GSO, 2015 - 2020). 2.2. Cáo buộc thao túng tiền tệ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam Trong tháng 12/2020, Bộ Tài chính Hoa Kỳ cáo buộc Việt Nam “thao túng tiền tệ”. Đây là đánh giá chưa thực sự khách quan và chưa xét tới mối quan hệ thương mại có tính chất bổ sung lẫn nhau giữa hai nước bởi các lý do sau: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 426 Thứ nhất, thặng dư thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong 4 quý tính đến tháng 6/2020 là 58 tỷ USD, đứng thứ 4 trong số các nước thặng dư thương mại lớn nhất so với Mỹ. Tuy nhiên, thặng dư thương mại chủ yếu đến từ nhóm doanh nghiệp FDI. Phần giá trị thặng dư mà Việt Nam nhận được nhờ gia công các mặt hàng xuất khẩu chính vào Hoa Kỳ như: may mặc, giày dép, điện thoại, máy tính và linh kiện điện tử tương đối thấp (SSI, 2015 - 2020). Do đó, Việt Nam không được hưởng lợi nhiều từ phần thặng dư thương mại lớn với Mỹ mà thực tế, công ty mẹ và những doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu đầu vào chiếm phần lớn thặng dư, bao gồm cả các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Hoa Kỳ cũng hưởng lợi nhờ được sử dụng các sản phẩm xuất khẩu giá rẻ của Việt Nam (SSI, 2015 - 2020). Thứ hai, thặng dư cán cân vãng lai trong kỳ đạt 4,6% GDP. Tuy nhiên, thặng dư cán cân vãng lai có sự đóng góp rất lớn từ lượng kiều hồi gửi về Việt Nam. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), lượng kiều hối gửi về Việt Nam năm 2019 đạt khoảng 17 tỷ USD, chiếm tới 6,4% GDP. Kiều hối gửi về Việt Nam với mục đích chính là trợ giúp gia đình, người thân và có xu hướng tăng trưởng ổn định qua các năm, do đó ít chịu tác động bởi những biến động nhỏ của tỷ giá (SSI, 2015 - 2020). Thứ ba, việc NHNN mua ròng ngoại tệ là nhu cầu thực tế trong bối cảnh lượng kiều hối, vốn FDI đều đặn đổ vào Việt Nam với số lượng khá lớn, gần 40 tỷ USD mỗi năm (SSI, 2015 - 2020). Pháp luật Việt Nam hiện tại không cho phép sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư khi chuyển tiền vào Việt Nam kinh doanh, phải đổi sang tiền đồng để giải ngân. Tiền thu từ hoạt động xuất khẩu cũng như kiều hối khi chuyển về Việt Nam cũng phải đổi sang tiền đồng để sử dụng. Trong bối cảnh đó, NHNN với tư cách là người mua cuối cùng trên thị trường, cần thiết phải thực hiện mua vào ngoại tệ để đáp ứng quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân cũng như ổn định thị trường tài chính - tiền tệ - ngoại hối. Bên cạnh đó, hiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn thấp hơn mức bình quân của các nước có cùng trình độ phát triển với Việt Nam (nhóm nước có thu nhập trung bình thấp) là 7 tháng nhập khẩu, cũng như thấp hơn so với khuyến cáo và thông lệ chung trên thế giới (khoảng trên 5 tháng nhập khẩu). Do đó, việc gia tăng dự trữ ngoại hối trong thời gian tới vẫn là công việc cần thiết của NHNN nhằm củng cố an ninh tài chính quốc gia. Thứ tư, theo lý thuyết ngang giá sức mua, biến động tỷ giá hối đoái phản ánh mức chênh lệch về lạm phát giữa các nước có quan hệ thương mại với nhau. Trong những năm gần đây, lạm phát của Việt Nam bình quân khoảng 3,1%/năm trong khi lạm phát của Mỹ khoảng 1,5%/năm. Do đó, việc điều chỉnh tăng tỷ giá USD/VND khoảng 1,5%/năm trong những năm gần đây là hoàn toàn có cơ sở. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 427 Với những phân tích trên, có thể thấy, trong ngắn hạn, việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách thao túng tiền tệ chưa có nhiều tác động tới hoạt động xuất khẩu và nền kinh tế Việt Nam. Nguyên nhân là do hiện tại hai nước vẫn đang trong giai đoạn đàm phán để giải quyết các bất đồng liên quan đến vấn đề thương mại và điều hành tỷ giá hối đoái. 2.3. Dự báo diễn biến kinh tế vĩ mô Mục tiêu tổng quát mà Đảng và Nhà nước đặt ra cho giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 là Việt Nam phấn đấu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm khoảng 6,5% - 7%; GDP bình quân đầu người đến năm 2025 đạt 4.700 USD - 5.000 USD; chỉ số CPI bình quân tăng khoảng dưới 4%; tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm (SSI, 2015 - 2020). Nước ta đang triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 trong bối cảnh thế giới dự báo có nhiều biến động, đặc biệt là dịch COVID-19 còn phức tạp, khó lường. Tăng trưởng GDP các năm 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, các hoạt động kinh tế - xã hội được dự báo sẽ phục hồi mạnh hơn tuy còn phụ thuộc vào ba yếu tố: (i) khả năng kiểm soát dịch bệnh của thế giới và Việt Nam, (ii) hiệu quả của các gói hỗ trợ, và (iii) hợp tác quốc tế trong phòng chống dịch (gồm cả khâu sản xuất, phân phối vắc-xin) và khôi phục kinh tế. Tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 dự báo có thể đạt 6,5% - 7%/năm, tương đồng với dự báo của các tổ chức quốc tế như trong Bảng 1 dưới đây. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 428 Động lực tăng trưởng chính của Việt Nam trong giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030: Về phía cung: cơ bản vẫn là ngành công nghiệp chế biến - chế tạo với dự báo tăng khoảng 10% - 11%/năm trong 10 năm; ngành xây dựng tăng khoảng 8% - 9%/năm và ngành dịch vụ tăng khoảng 6% - 7%/năm (BIDV, 2015 - 2020). Về lạm phát: áp lực lạm phát được dự báo sẽ tăng trong giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 do tác động của đà hồi phục kinh tế, lộ trình tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý, độ trễ của chính sách tiền tệ - tài khóa mở rộng. Dự báo CPI bình quân giai đoạn 2021 - 2025 sẽ tăng 3,5% - 3,7% so với năm 2020. Vì vậy, để đảm bảo kiểm soát tốt lạm phát, cần chú trọng đảm bảo hiệu quả các gói hỗ trợ, tăng cường bình ổn giá, đảm bảo dân sinh và niềm tin người tiêu dùng (đặc biệt vào các dịp cao điểm mang tính mùa vụ) cũng như phối hợp, truyền thông chính sách tốt hơn (BIDV, 2015 - 2020). Về cân đối ngân sách: để tiếp tục hỗ trợ phục hồi kinh tế và trang trải các khoản vay cũ, dự báo thâm hụt ngân sách và nợ công Việt Nam sẽ vẫn duy trì mức cao trong giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 khoảng 4% GDP và 56% - 58% GDP (GDP chưa đánh giá lại), song sẽ được kiểm soát theo hướng giảm dần qua từng năm trong giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030. Dự báo thâm hụt ngân sách sẽ được kiểm soát ở mức dưới 3,5% trong giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 (theo GDP sau đánh giá lại) và nợ công giảm dần và ở mức 43% - 45%GDP vào năm 2025 và khoảng 44% - 46% vào năm 2020 (theo GDP đánh giá lại), tiệm cận mức nợ công bền vững theo khuyến cáo của IMF (BIDV, 2015 - 2020). Trong giai đoạn giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, kinh tế vĩ mô trong nước và trên thị trường quốc tế tiếp tục có những biến động bất thường, đặc biệt là căng thẳng thương mại giữa Mỹ - Trung Quốc, diễn biến giá dầu thô, dịch bệnh COVID-19 cũng diễn biến rất khó dự đoán, thiên tai cũng diễn biến rất phức tạp. Trên cơ sở mục tiêu của Quốc hội, nghị quyết của Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong và ngoài nước, NHNN cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát; duy trì ổn định vĩ mô, thị trường, hỗ trợ phục hồi nhanh kinh tế (BIDV, 2015 - 2020). Trong giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, nhu cầu vốn tín dụng cho tăng trưởng kinh tế là rất lớn, các TCTD tiếp tục cạnh tranh với nhau mở rộng tín dụng an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế, với tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn năm 2020 và tương đương năm 2019, đạt KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 429 12% - 14%. Tuy nhiên, các ngân hàng TMCP tư nhân có mức tăng trưởng cao hơn, còn các NHTM Nhà nước có tốc độ tăng thấp hơn và tỷ trọng thị phần tín dụng tiếp tục giảm (BIDV, 2015 - 2020). Trong giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, thị trường tài chính quốc tế tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lượng bởi tác động của đại dịch COVID-19 gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu kéo dài, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc vẫn tiếp tục căng thẳng. Dự báo NHNN tiếp tục mục tiêu điều hành ổn định tỷ giá với biến động VND/USD tăng không quá 1,0% - 1,5% so với năm trước. Dự trữ ngoại hối tiếp tục được tăng cường. 3. NHÓM GIẢI PHÁP TỔNG THỂ Thứ nhất, các bộ, ngành chức năng thuộc Chính phủ tiếp tục nâng cao năng lực dự báo, tham mưu, phối hợp xây dựng, vận hành, tổ chức thực hiện các công cụ, các biện pháp điều hành chính sách theo chức năng và nhiệm vụ của bộ, ngành mình được phân công đảm bảo chủ động, linh hoạt, sát thực tiễn và hiệu quả, đảm bảo tính minh bạch và khách quan trong điều hành và xử lý cụ thể trong xu hướng thị trường tài chính quốc tế, kinh tế - xã hội trong nước có những diễn biến rất khó lường, nền kinh tế ngày càng có độ mở lớn và quy mô lớn với thị trường thế giới. Đặc biệt là lãi suất, tỷ giá, nghiệp vụ thị trường mở, hạn mức tín dụng đối với các NHTM, cần được NHNN điều hành chủ động, linh hoạt phù hợp với cân đối vĩ mô, diễn biến thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ, đảm bảo thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định, thông suốt, hướng tới tiếp tục giảm lãi suất cho vay trong nền kinh tế. Thứ hai, các bộ, ngành chức năng thuộc Chính phủ cần tiếp tục quyết liệt trong thực hiện giai đoạn 3 tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu các TCTD giai đoạn đến năm 2025, nâng cao năng lực các công cụ, các biện pháp điều hành chính sách theo chức năng và nhiệm vụ của bộ, ngành mình được phân công đảm bảo chủ động, linh hoạt, sát thực tiễn và hiệu quả, đảm bảo tính minh bạch và khách quan trong điều hành và xử lý cụ thể. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo TCTD tiếp tục triệt để tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay, đơn giản hóa quy trình thủ tục, tạo điều kiện cho khách hàng vay mới phục hồi sản xuất - kinh doanh, nhưng không hạ chuẩn cho vay, đảm bảo chất lượng, an toàn tín dụng, duy trì hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, cần tập trung nguồn lực cán bộ, triển khai các biện pháp tháo gỡ vướng mắc về xử lý nợ xấu, giảm tỷ lệ nợ xấu của các TCTD. Thứ ba, NHNN tiếp tục điều hành tín dụng theo hướng mở rộng tín dụng hiệu quả, an toàn đối với nền kinh tế, hướng dòng vốn cho vay của các TCTD tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, đồng thời, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng; góp phần hạn chế đến mức thấp nhất “tín dụng đen” trong nền kinh tế. Thứ tư, các bộ, ngành chức năng thuộc Chính phủ cần tiếp tục rà soát lại một cách có hệ thống toàn bộ các văn bản pháp lý ở phạm vi ban hành của các bộ, ngành chức năng thuộc Chính phủ, phạm vi tham mưu cho Quốc hội và Chính phủ, phạm vi ban hành của Bộ Tài chính và các bộ, ngành khác có nội dung về các công cụ, các biện pháp điều hành chính sách theo chức năng và nhiệm vụ của bộ, ngành mình được phân công đảm bảo chủ động, linh hoạt, sát thực tiễn và hiệu quả, đảm bảo tính minh bạch và khách quan trong điều hành và xử lý cụ thể. Quá trình rà soát đó phải làm rõ lại trách nhiệm của bộ, ngành, trách nhiệm chủ trì phối hợp, trách nhiệm chủ trì KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 430 tham mưu. Nội dung rà soát cũng gắn với 17 Hiệp định thương mại quốc tế đang có hiệu lực thi hành của Việt Nam với các nước và các tổ chức. Trên cơ sở rà soát, đánh giá nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý ở mức độ cao hơn và phù hợp với tình hình mới. Cùng với đó, Bộ Tài chính và NHNN tiếp tục xây dựng, triển khai hiện đại hóa các hoạt động điều hành nói chung, thanh toán nói riêng, trong đó tập trung vào hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0 trong hoạt động thanh toán; triển khai các mô hình thanh toán tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với việc xây dựng và triển khai Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về thanh toán không dùng tiền mặt, giáo dục tài chính; tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời, nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ thanh toán. Thứ năm, Bộ Tài chính và NHNN cần tiếp tục linh hoạt trong phát triển các nghiệp vụ thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, điều hành các công cụ chính sách tiền tiệm công cụ chính sách tài chính theo hướng tiếp tục giảm lãi suất cho vay trong nền kinh tế giảm bội chi ngân sách nhà nước, chống thất thu thuế và chuyển giá của dự án FDI; đồng thời, nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát hoạt động kinh doanh, hoạt động cho vay, kinh doanh chứng khoán, trốn thuế, chuyển giá, chấp hành quy định pháp luật của các TCTD, công ty chứng khoán, các doanh nghiệp. Thứ sáu, NHNN cần tiếp tục chủ động điều hành linh hoạt, hợp lý tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với mức độ hấp thụ của nền kinh tế, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, xuất khẩu, nông nghiệp - nông thôn, tiêu dùng, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, góp phần quan trọng khôi phục hoạt động sản xuất - kinh doanh, duy trì tăng trưởng kinh tế sau dịch COVID-19. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BIDV (2015 - 2020), Báo cáo phân tích kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính của Viện Đào tạo và Nghiên cứu của BIDV hàng tháng, các năm 2015 - 2020. 2. BVSC (2015 - 2020), Báo cáo phân tích thị trường tài chính hàng tháng, các tháng từ năm 2015 đến tháng 12/2020; file mềm gửi các nhà đầu tư chứng khoán mở tài khoản tại Công ty Chứng khoán Bảo Việt. 3. CTCK (2018 - 2020), Báo cáo tài chính hàng năm và hàng quý, các năm 2018 - 2020 của một số công ty chứng khoán được lựa chọn. 4. IMF (2015 - 2020), Báo cáo đánh giá khu vực tài chính Việt Nam hàng quý, hàng năm, các năm 2015 - 2020 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, truy cập tại www.imf.or, ngày 10/3/2021. 5. GSO (1995 - 2021), Số liệu về tình hình phát triển kinh tế - xã hội hàng tháng và các năm 1995 - 2021, truy cập tại địa chỉ: www.gso.gov.vn 6. SBV (2015 - 2020), NHNN Việt Nam, truy cập tại www.sbv.gov.vn: Mục Tin tức, Văn bản quy phạm pháp luật; các thông tin có liên quan đã được công bố; truy cập từ ngày 24/12/2020 đến 2/1/2021. 7. SSI (2015 - 2021), Báo cáo phân tích thị trường tài chính hàng tháng; các tháng trong các năm 2015 - 2020 và đến tháng 3/2021, Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn - file mềm gửi qua thư điện tử cho các nhà đầu tư mở tài khoản tại SSI, Hà Nội.
File đính kèm:
- phan_tich_mot_so_dien_bien_tai_chinh_quoc_te_va_trong_nuoc_t.pdf