Phân tích cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực công nghệ xạ trị ở Việt Nam
Trong nghiên cứu này, các tác giả tổng hợp và phân tích kết quả điều tra thống kê năm 2019-2020 về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực của các cơ sở xạ trị ở Việt Nam, từ đó đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu Quy hoạch chi tiết phát triển, ứng dụng bức xạ trong y tế đến năm 2020, đồng thời đánh giá tỷ lệ sử dụng xạ trị thực tế (ARUR) của Việt Nam. Kết quả điều tra thống kê đã được phân tích để thảo luận về phân bố địa lý và đánh giá các tỷ số đặc trưng PT/ LINAC, PT/RO, PT/ROMP, PT/RTT của các cơ sở xạ trị trong ứng dụng công nghệ xạ trị LINAC. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tuy Việt Nam chưa đạt mục tiêu quy hoạch đến năm 2020, nhưng đã đạt nhiều thành tựu về phát triển mạng lưới cơ sở xạ trị trong toàn quốc và đầu tư thiết bị xạ trị LINAC đạt mức 0,73 thiết bị LINAC/triệu dân; tỷ lệ sử dụng xạ trị thực tế bằng LINAC đạt 20% với việc ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến như IMRT, VMAT, IGRT, SRS, SBRT và đầu tư thiết bị mô phỏng CT, MRI, PET/CT. Tổng số bác sỹ, nhân viên y vật lý, kỹ thuật viên xạ trị trong toàn quốc tương ứng là 318, 151 và 356 người. Các cơ sở xạ trị và đội ngũ chuyên gia chủ yếu tập trung ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh với 67% thiết bị LINAC đáp ứng 80% số bệnh nhân xạ trị LINAC hàng năm. Một mô hình dự báo nhu cầu xạ trị đã được đề xuất và áp dụng để xác định số lượng thiết bị LINAC, nguồn nhân lực kỳ vọng cần thiết cho giai đoạn 2020-2040 nhằm đạt tỷ lệ sử dụng xạ trị thực tế 25-35% số bệnh nhân mắc ung thư mới hàng năm. Theo đó, số lượng thiết bị LINAC kỳ vọng cần thiết đến năm 2030 và năm 2040 tương ứng đạt tỷ lệ 1,1 LINAC/triệu dân và 1,7 LINAC/triệu dân, nhu cầu nguồn nhân lực RO, ROMP, RTT được dự báo sẽ tăng tương ứng tối thiểu 12, 34 và 67% từ năm 2021 đến năm 2030 và 71% cho giai đoạn 2031-2040
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực công nghệ xạ trị ở Việt Nam
LINAC* Tỷ lệ bệnh nhân xạ trị LINAC (%) Dân số năm 2019 (triệu người) Bắc Bộ 16 32 48,5 17.961 51,94 35 Trung Bộ - Tây Nguyên 8 12 18,2 4.114 11,9 26 Nam Bộ 9 22 33,3 12.505 36,16 35 Tổng 33 66 100 34.580 100 96 Hà Nội 10 25 37,9 15.363 44,43 8 Đà Nẵng 3 5 7,6 1.284 3,71 1,1 TP Hồ Chí Minh 7 19 28,8 12.053 34,86 9 Tổng 20 49 74,3 28.700 83,0 18,1 *Không tính 5 cơ sở xạ trị với 6 thiết bị LINAC chưa có số liệu cập nhật về số bệnh nhân. 8 TP Hồ Chí Minh 7 19 28,8 12.053 34,86 9 Tổng 20 49 74,3 28.700 83,0 18,1 *Không tính 5 cơ sở xạ trị với 6 thiết bị LINAC chưa có số liệu cập nh t về số bệnh nhân. Hình 2. Phân bố địa lý các cơ sở xạ trị LINAC, thiết bị LINAC, số bệnh nhân xạ trị LINAC năm 2019. Tỷ số đặc trưng và phân loại các cơ sở xạ trị Thông thường, giá trị của các tỷ số đặc trưng PT/LINAC, PT/RO, PT/ROMP, PT/RTT nằm trong một khoảng nhất định. Khi tỷ số này lớn hơn giới hạn thì cần xem xét việc bổ sung thiết bị, nhân lực hoặc ngược lại khi tỷ số thấp hơn giới hạn có nghĩa là hiệu quả, tính kinh tế của việc đầu tư trang thiết bị còn thấp, cần xem xét nâng cao theo điều kiện thực tế. Trong nghiên cứu này, các tỷ số đặc trưng lần đầu tiên được xác định cho 28 cơ sở xạ trị có thiết bị LINAC và được trình bày trong bảng 2 và hình 3 (sắp xếp theo thứ tự tăng dần của tỷ số PT/LINAC). Bảng 2. Tỷ số đặc trưng PT/LINAC, PT/RO, PT/ROMP, PT/RTT của 28 cơ sở xạ trị LINAC năm 2019. ST T Cơ sở xạ trị Số LINAC PT/ LINAC PT/ RO PT/ ROMP PT/ RTT 1 C Đà Nẵng 1 34 17 34 6 2 Đa khoa Hợp Lực 1 91 30 46 30 3 Đa khoa Đà Nẵng 2 105 42 70 42 4 Đa khoa Kiên Giang 2 125 83 42 50 5 Đa khoa Bắc Ninh 1 140 35 47 47 6 Ung bướu Nghệ An 2 200 67 80 44 7 Đa khoa Đồng Nai 1 202 51 67 101 0 10 20 30 40 Cơ sở xạ trị LINAC Thiết bị LINAC Bệnh nhân (x1.000) 16 32 17,961 8 12 4,114 9 22 12,505 Bắc Bộ Trung Bộ-Tây Nguyên Nam Bộ Hình 2. Phân bố địa lý các cơ sở xạ trị LINAC, thiết bị LINAC, số bệnh nhân xạ trị LINAC năm 2019. Tỷ số đặc trưng và phân loại các cơ sở xạ trị Thông thường, giá trị của các tỷ số đặc trưng PT/LINAC, PT/ RO, PT/ROMP, PT/RTT nằm trong một khoảng nhất định. Khi tỷ số này lớn ơn giới hạn thì cần xem xét việc bổ sung thiết bị, nhân lực hoặc gược lại khi tỷ số thấp hơn giới hạn có nghĩa là hiệu quả, tính kinh tế của việc đầu tư trang thiết bị còn ấp, cần xem xét âng cao theo điều kiện t ực tế. Trong nghiên cứu ày, các tỷ số đặc trưng lần đầu tiên được xác định cho 28 cơ sở xạ trị có thiết bị LINAC và ược trình bày trong bảng 2 và hình 3 (sắp xếp theo thứ tự tăng dần của tỷ số PT/LINAC). 71 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 63(6) 6.2021 Bảng 2. Tỷ số đặc trưng PT/LINAC, PT/RO, PT/ROMP, PT/RTT của 28 cơ sở xạ trị LINAC năm 2019. Hình 3. Phân bố các tỷ số đặc trưng của 28 cơ sở xạ trị (năm 2019). Theo tài liệu “Xạ trị ung thư: Đối mặt với thách thức toàn cầu” [8], công suất xạ trị (PT/LINAC) của một thiết bị LINAC từ 400 đến 600 bệnh nhân/năm. Số lượng bệnh nhân được xạ trị của một thiết bị LINAC trong một năm còn tùy thuộc vào cơ sở xạ trị cụ thể. Để tính toán số lượng LINAC cần thiết cho một cơ sở xạ trị, vùng địa lý hoặc cả nước cần thiết phải sử dụng số liệu PT/LINAC ở phạm vi thích hợp. Tỷ số PT/LINAC năm 2019 của Việt Nam ước tính khoảng 540 bệnh nhân xạ trị/LINAC. Phân tích số liệu về các tỷ số đặc trưng của 28 cơ sở xạ trị được trình bày trong bảng 2 và hình 3, có thể phân loại các cơ sở xạ trị ở Việt Nam theo ba nhóm sau đây: nhóm I: cơ sở xạ trị có tỷ số PT/LINAC ≥ 600; nhóm II: cơ sở xạ trị với 400 ≤ tỷ số PT/LINAC < 600; nhóm III: cơ sở xạ trị có tỷ số PT/LINAC < 400. Theo phân nhóm như trên, có 10 cơ sở thuộc nhóm I với 33 thiết bị LINAC, 6 cơ sở thuộc nhóm II với 10 thiết bị LINAC, 12 cơ sở xạ trị thuộc nhóm III với 17 thiết bị LINAC. Trong bảng 2, danh sách các cơ sở xạ trị thuộc các nhóm I, II, III tương ứng số thứ tự là 19-28, 13-18 và 1-12. Các tỷ số đặc trưng theo IAEA [2], ESTRO [3] cùng với các tỷ số đặc trưng trong ứng dụng công nghệ xạ trị của Việt Nam theo ba nhóm cơ sở xạ trị LINAC được trình bày trong bảng 3. Bảng 3. Tỷ số đặc trưng của ba nhóm cơ sở xạ trị LINAC của Việt Nam, IAEA, ESTRO. PT/LINAC PT/RO PT/ROMP PT/RTT IAEA 400-500 250-300 300-400 100-150 ESTRO 400-450 200-250 450-500 - Việt Nam (2019) Nhóm I (600-1.000) 53-394 183-667 73-328 Nhóm II (400-600) 53-198 173-265 87-160 Nhóm III (<400) 17-174 34-309 6-163 Dựa trên số liệu được trình bày trong bảng 2 và bảng 3, có thể đưa ra các đánh giá so sánh và khuyến cáo như sau: Đối với nhóm I: 02 bệnh viện ở TP Hồ Chí Minh (Chợ Rẫy và Nhân dân 115) có tỷ số PT/RO >300, cần sớm có kế hoạch đầu tư thiết bị LINAC, bổ sung số lượng bác sỹ và nhân viên y vật lý xạ trị. Bệnh viện K Hà Nội có tỷ số PT/ROMP là 667, vượt quá giới hạn của IAEA và ESTRO, cần có kế hoạch bổ sung khoảng 30% nhân viên y vật lý, đầu tư thiết bị LINAC. Các bệnh viện Ung bướu Hà Nội, K Hà Nội, Nhân dân 115, Ung bướu Thanh Hóa có tỷ số PT/ RTT >150 theo khuyến cáo của IAEA, cần có kế hoạch kịp thời bổ sung số lượng kỹ thuật viên xạ trị. Đối với nhóm II: các tỷ số đặc trưng của 6 cơ sở xạ trị nhóm II về cơ bản nằm trong giới hạn khuyến cáo của IAEA, chỉ có tỷ số PT/ RTT của Bệnh viện 175 là 160, vượt giới hạn 150. Đối với nhóm III: các tỷ số đặc trưng của 12 cơ sở xạ trị nhóm III về cơ bản nằm trong giới hạn khuyến cáo của IAEA, ESTRO, chỉ có tỷ số PT/RTT của Bệnh viện Quân y 103 là 163, vượt giới hạn 150. Tuy nhiên, cần phải nâng cao năng lực điều trị, chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả đầu tư đối với 12 cơ sở xạ trị thuộc nhóm III. Mô hình dự báo nhu cầu LINAC và nguồn nhân lực Việc lập kế hoạch quốc gia về phát triển ứng dụng công nghệ xạ trị đòi hỏi phải có hiểu biết kỹ lưỡng về hồ sơ dịch tễ học ung thư của đất nước, tỷ lệ sử dụng xạ trị thực tế ARUR và dự báo tương lai của dữ liệu này. Theo IAEA, tỷ lệ ARUR ở các nước có thu nhập trung bình là 28% (9-46%) và tỷ tệ xạ trị tối ưu là 52% (47-56%) [9]. Theo kết quả điều tra thống kê ứng dụng công nghệ xạ trị ở Việt Nam được trình bày ở trên, tỷ lệ sử dụng xạ trị LINAC thực tế ARUR ở Việt Nam là 20%, do đó chúng ta có thể kỳ vọng tỷ lệ này sẽ tăng dần trong giai đoạn sau 2020. Trong mô hình dự báo nhu cầu, chúng tôi đặt mục tiêu tỷ lệ kỳ vọng ARUR sử dụng LINAC tương ứng là 25% cho giai đoạn 2020-2030 và 35% cho giai đoạn 2030-2040. Ngoài ra, theo báo cáo của Bộ Y tế bang Victoria (Úc) [10], số lượng cần thiết RO, ROMP, RTT tỷ lệ với số thiết bị LINAC kỳ vọng với các hệ số tương ứng là 3,0-1,7-10,0. Theo kết quả điều tra thống kê, các hệ số RO/LINAC, ROMP/LINAC và RTT/LINAC của Việt Nam đã được xác định tương ứng là 4,2-2,0-4,6. Kết hợp kết quả nghiên cứu của STT Cơ sở xạ trị Số LINAC PT/ LINAC PT/ RO PT/ ROMP PT/ RTT 1 C Đà Nẵng 1 34 17 34 6 2 Đa khoa Hợp Lực 1 91 30 46 30 3 Đa khoa Đà Nẵng 2 105 42 70 42 4 Đa khoa Kiên Giang 2 125 83 42 50 5 Đa khoa Bắc Ninh 1 140 35 47 47 6 Ung bướu Nghệ An 2 200 67 80 44 7 Đa khoa Đồng Nai 1 202 51 67 101 8 Bãi Cháy 2 227 76 151 41 9 Việt Nam - Thụy Điển (Uông Bí) 1 240 120 240 120 10 Đa khoa Bình Định 1 309 155 309 77 11 Quân y 103 2 325 81 217 163 12 Đa khoa Thái Bình 1 347 174 174 87 13 19-8 Bộ Công an 1 475 158 238 95 14 Y học phóng xạ và U bướu Quân đội 1 478 96 239 96 15 Quân y 175 2 480 96 240 160 16 Ung bướu Đà Nẵng 2 520 116 173 87 17 Trung ương Quân đội 108 3 527 198 264 105 18 Phổi Trung ương 1 530 53 265 177 19 Ung bướu Thanh Hóa 1 656 60 328 328 20 Hữu nghị Việt Tiệp 1 686 137 229 137 21 Trung ương Huế 2 687 125 344 137 22 Chợ Rẫy 4 690 394 460 120 23 Đa khoa Phú Thọ 1 732 92 183 73 24 Nhân dân 115 2 750 375 500 214 25 Ung bướu Hà Nội 2 753 188 376 167 26 K Hà Nội 12 779 267 667 183 27 Bạch Mai 1 800 53 267 133 28 Ung bướu TP Hồ Chí Minh 7 976 127 273 137 72 Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 63(6) 6.2021 IAEA [8], Úc [10] và kết quả điều tra thống kê trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng các hệ số PT/LINAC, RO/LINAC, ROMP/ LINAC và RTT/LINAC trong mô hình đánh giá dự báo tương ứng là 500-3,0-1,7-5,0. Số lượng LINAC kỳ vọng cần thiết sẽ là (ARUR x N)/500, trong đó N là số ca mắc ung thư mới hàng năm theo số liệu của IARC. Kết quả đánh giá dự báo số lượng LINAC, RO, ROMP, RTT cần thiết kỳ vọng tối thiểu cho giai đoạn đến 2040 được trình bày trong bảng 4 (các số liệu có dấu (-) vào năm 2020 là số lượng LINAC, ROMP, RTT thiếu hụt so với nhu cầu kỳ vọng). Bảng 4. Dự báo nhu cầu LINAC và nguồn nhân lực xạ trị đến năm 2040. Năm Số ca ung thư mới [1] Số ca điều trị kỳ vọng Số LINAC RO ROMP RTT 2020 183.000 45.750 92 (-22) 276 156 (-5) 460 (-104) 2025 209.000 52.250 105 315 179 525 2030 237.000 59.250 119 357 202 595 2035 265.000 92.750 186 558 316 930 2040 291.000 101.850 204 612 347 1.020 Với giả thiết tỷ lệ tăng trưởng dân số của Việt Nam là 1,16%/ năm, thì đến năm 2030 và năm 2040, số lượng LINAC/triệu dân dự báo tương ứng đạt tỷ lệ 1,1 LINAC/triệu dân và 1,7 LINAC/triệu dân. Nhu cầu nguồn nhân lực RO, ROMP, RTT được dự báo tăng tương ứng tối thiểu 12, 34 và 67% từ năm 2021 đến năm 2030 và 71% trong giai đoạn 2031-2040. Như vậy, sử dụng tỷ lệ xạ trị thực tế ở Việt Nam làm mục tiêu thay cho chỉ tiêu số thiết bị xạ trị trên một triệu dân trong quy hoạch phát triển ứng dụng công nghệ xạ trị cho phép xác định các nguồn lực và giải pháp phát triển cần thiết một cách đồng bộ. Ngoài việc đầu tư thiết bị LINAC ứng dụng các kỹ thuật hiện đại như IMRT, IGRT, VMAT, SRS, SBRT, cần thiết tiến hành nghiên cứu khả thi các dự án đầu tư công nghệ hiện đại như MRI/LINAC, xạ trị proton, xạ trị BNCT ứng dụng chùm nơtron từ lò phản ứng nghiên cứu hoặc thiết bị gia tốc. Để khai thác hiệu quả thiết bị xạ trị hiện đại, cần phải đồng thời đầu tư thiết bị mô phỏng như CT mô phỏng, MRI, PET/ CT, PET/MRI và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua một chương trình đào tạo quốc gia trong lĩnh vực xạ trị. Kết luận Lần đầu tiên tiến hành điều tra thống kê và tổng hợp, phân tích số liệu về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực của các cơ sở xạ trị ở Việt Nam, đã ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể về số cơ sở xạ trị, số thiết bị xạ trị LINAC trong giai đoạn thực hiện Quy hoạch chi tiết phát triển, ứng dụng bức xạ trong y tế đến năm 2020 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đến năm 2020, Việt Nam đã đầu tư, phát triển 44 cơ sở xạ trị, đạt tỷ lệ 0,73 LINAC/triệu dân và 35% tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương có cơ sở ung bướu có thiết bị xạ trị. Tổng số bác sỹ, nhân viên y vật lý, kỹ thuật viên xạ trị trong toàn quốc tương ứng là 318, 151 và 356 người. Có sự tập trung cao đội ngũ chuyên gia, thiết bị LINAC (67%) và bệnh nhân xạ trị LINAC (80%) ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Năm 2019, với tổng số 34.580 bệnh nhân xạ trị LINAC, tỷ lệ sử dụng xạ trị thực tế (ARUR) ứng dụng công nghệ LINAC ở Việt Nam đạt khoảng 20%. Nhờ việc xác định tỷ số đặc trưng giữa số lượng bệnh nhân trên một thiết bị LINAC (PT/LINAC), các cơ sở xạ trị của Việt Nam được phân loại theo ba nhóm. Căn cứ các tỷ số đặc trưng PT/RO, PT/ROMP, PT/RTT được xác định đối với 28 cơ sở xạ trị LINAC, cần phải kịp thời bổ sung nhân lực và đầu tư thiết bị đối với các cơ sở xạ trị thuộc Nhóm I với số bệnh nhân là 600-1.000/LINAC/năm bởi vì các tỷ số đặc trưng của cơ sở xạ trị này vượt quá giới hạn khuyến cáo của IAEA và ESTRO; cần phải nâng cao năng lực điều trị, chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả đầu tư đối với 12 cơ sở xạ trị thuộc nhóm III với số bệnh nhân dưới 400/LINAC/năm. Cần thiết sử dụng tỷ lệ xạ trị thực tế ở Việt Nam làm mục tiêu thay cho chỉ tiêu số thiết bị xạ trị trên một triệu dân trong việc xây dựng Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 108/ QĐ-TTg ngày 22/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Với mục tiêu sử dụng xạ trị thực tế đạt tỷ lệ 25-35% cho giai đoạn 2030-2040, số lượng thiết bị LINAC cần thiết đến năm 2030 và 2040 được dự báo theo mô hình chúng tôi đề xuất là 119 và 204 thiết bị, tương ứng tỷ lệ 1,1 LINAC/triệu dân và 1,7 LINAC/triệu dân. Nhu cầu nguồn nhân lực bác sỹ xạ trị, nhân viên y vật lý và kỹ thuật viên dự báo tăng tương ứng tối thiểu 12, 34 và 67% từ năm 2021 đến năm 2030 và 71% trong giai đoạn 2031-2040. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài “Xây dựng bản đồ công nghệ bức xạ và đồng vị phóng xạ trong lĩnh vực y tế, công nghiệp” mã số ĐM.48.DA/19, thuộc Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm và các cơ quan quản lý Chương trình, các bệnh viện có cơ sở xạ trị đã hỗ trợ thực hiện nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]https://gco.iarc.fr/tomorrow/en/dataviz/isotype?populations=704&single_ unit=10000. [2] International Atomic Energy Agency (2010), “Planning national radiotherapy services: a practical tool”, IAEA Human Health Series, 14, pp.31-58. [3] B. Slotman, B. Cottier, S. Bentzen, et al. (2005), “Overview of national guidelines for infrastructure and staffing of radiotherapy. ESTRO-QUARTS: work package 1”, Radiotherapy and Oncology, 75, p.6. [4] Đặng Huy Quốc Thịnh, Nguyễn Trung Hiếu (2018), “Ứng dụng xạ trị kỹ thuật cao bằng máy Truebeam-Varian tại Bệnh viện Ung bướu TP Hồ Chí Minh”, Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ III ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Cục Năng lượng nguyên tử, tr.71-75. [5] Hoàng Anh Tuấn (2015), “Tổng hợp kết quả giai đoạn 2006-2015 thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020”, Tuyển tập báo cáo 10 năm thực hiện Chiến lược Ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020 (giai đoạn 2006-2015), Cục Năng lượng nguyên tử, tr.11-28. [6] Mai Trọng Khoa (2015), “Tình hình ứng dụng năng lượng bức xạ ion hóa trong ngành y tế Việt Nam”, Tuyển tập báo cáo 10 năm thực hiện Chiến lược Ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020 (giai đoạn 2006-2015), Cục Năng lượng nguyên tử, tr.77-83. [7] Hoàng Anh Tuấn (2018), “Tổng quan về ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”, Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ III ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Cục Năng lượng nguyên tử, tr.7-11. [8] M. Barton, M. Williams (2017), “Assessing needs and demand for radiotherapy”, Radiotherapy in cancer care: facing the global challenge, IAEA, pp.43-57. [9] E. Rosenblatt, et al. (2018), “Radiotherapy utilization in developing countries: an IAEA study”, Radiother Oncol, 128, pp.400-405. [10] Hua Zhang (2010), Victorian Medical Radiations: Workforce Supply and Demand Projections (2010-2030), Published by the Modelling, GIS and Planning Products Unit, Victorian Government, Department of Health, Melbourne, Victoria, Australia, pp.9.
File đính kèm:
- phan_tich_co_so_ha_tang_va_nguon_nhan_luc_cong_nghe_xa_tri_o.pdf