Phân loại khoa học của Charles Sanders Pierce: Lịch sử, nội dung và ý nghĩa
Bài viết trình bày lịch sử ra đời, hệ thống hóa, đưa ra các đánh giá có tính phê phán, góp
phần hoàn thiện bảng phân loại của Pierce, vạch ra ý nghĩa nhận thức và ý nghĩa ứng dụng của chúng
trong khoa học luận và quản lý khoa học công nghệ. Các phương pháp được sử dụng bao gồm:
nghiên cứu tư liệu, dùng các tư liệu sơ cấp một cách có phê phán (bản gốc tư liệu của Pierce) và tài
liệu thứ cấp của các học giả nghiên cứu về Pierce; phương pháp logic nhằm đánh giá tính nhất quán
của các bảng phân loại khoa học của Pierce; phương pháp lịch sử nhằm làm rõ bối cảnh ra đời bảng
các bảng phân loại khoa học của Pierce. Bài viết nêu ra lý do và tầm quan trọng của nghiên cứu,
phác thảo sơ lược lịch sử phân loại khoa học trước Pierce, phân tích hoàn cảnh lịch sử (vĩ mô và vi
mô) dẫn đến sự ra đời bảng phân loại của của Pierce, nội dung các bảng phân loại của Pierce và ý
nghĩa của chúng đối với văn hóa, nghiên cứu khoa học và quản lý nghiên cứu khoa học.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân loại khoa học của Charles Sanders Pierce: Lịch sử, nội dung và ý nghĩa
c và tâm lý học thí nghiệm (experimental psychology) [1, 2]. Làm việc và nghiên cứu đa dạng các chủ đề khiến cho Pierce trở thành một nhà uyên bác (a polymath), tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổng hợp và phân tích khoa học như một toàn thể. Bên cạnh mặt thuận lợi, Pierce cũng gặp không ít khó khăn trong đời sống học thuật. Do mối ác cảm từ một số lãnh đạo đại học Harvard, ông đã không thể kiếm được một biên chế tại trường này [1]. Ông chỉ nổi tiếng sau khi mất và do không xuất bản chính thức các tác phẩm khoa học nhiều mà chủ yếu giữ ở dạng bản thảo nên nhiều tư tưởng của ông các học giả thế hệ sau mới khai thác. Đó cũng là một nguyên nhân khiến các công trình của ông, trong đó có phân loại khoa học bị chìm trong quên lãng một thời gian. Có thể nói, học vấn, môi trường học thuật thuận lợi từ gia đình, đồng nghiệp hứng thú và thiên tư riêng của Peirce đã góp phần định hình phân loại học khoa học của Pierce, và sự bất lợi mà Pierce gặp phải cũng kiềm hãm sự phổ biến những tư tưởng lớn của ông về phân loại khoa học. 3.2. Tiêu chí, cách thức phân loại khoa học của Pierce Cũng như các nhà phân loại khoa học lớn khác, Pierce không nhìn khoa học như một tập hợp hỗn độn các chuyên ngành mà như một tổng thể thống nhất và được chia tách theo nhiều lát cắt khác nhau, chúng ta gọi là tiêu chí phân loại. Pierce phân loại khoa học theo các tiêu chí: Mức độ chuyên biệt hóa (degree of specialization) (1889), mức độ trừu tượng của đối tượng nghiên cứu (1898), mục đích căn bản của nghiên cứu (1903). Dựa vào phân loại sinh học của Agassiz, Pierce đưa các khái niệm như Chi, Loài, Giống, Họ vào hệ thống phân loại L.V. Hung / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-72 67 của mình thể hiện các tiêu chí như mục đích chung, đối tượng chung, mức độ tự trị của chuyên ngành.v..v. Dựa vào các tiêu chí đó, Pierce cụ thể hóa thành các sơ đồ và bảng phân loại, như dưới đây. 3.3. Các sơ đồ và bảng phân loại khoa học của Pierce Sơ đồ phân loại khoa học của Pierce 1889 [7-8]. Theo mức độ chuyên biệt hóa, ta có thể thấy, theo Pierce thì Toán học là khoa học tổng quát nhất, chỉ nghiên cứu các đối tượng mang tính giả thuyết của tâm trí con người (không quan sát thực kiện). Điểm đặc biệt là Pierce xếp Toán học cao hơn Triết học trong thang phổ quát, Triết học khảo sát và phân tích logic đối với các tập hợp chung về thực kiện. K h o a h ọ c (A) Toán học (1) Toán học thuần túy (2) Toán học ứng dụng (a) Triết học toán học (b) Toán lý (c) Tâm lý toán (B) Triết học (1) Logic học (a) Ngữ pháp hình thức (b) Logic chuẩn tắc (c) Biện thuyết hình thức (2) Siêu hình học (C) Khoa học về các quy luật (1) Tâm lý học (2) Vật lý học (D) Hóa học (E) Sinh học (F) Khoa học về các cơ quan, tổ chức (1) Sinh lý học (2) Xã hội học (G) Khoa học về các đối tượng đặc thù (1) Vũ trụ học mô tả (2) Tâm lý học mô tả Triết học Logic học Siêu hình học Các khoa học cụ thể Tâm học Vật lý học Tâm lý học quy luật Vật lý học quy luật Toán học L.V. Hung / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 1 (2019) 62-72 68 Lược đồ phân loại năm 1898 [7, 8]. Sơ đồ phân loại khoa học của Pierce năm 1902-1911 [7, 9]. Phân loại khoa học dựa theo cách phân loại sinh học. [7] Tên Đặc điểm (Bản phân loại khoa học chi Đặc điểm (Bản sử dụng tại học viện Carnegie, 1902) Ví dụ (Các ví dụ là của bản Carnegie 1902) K h o a h ọ c (A) Khoa học khám phá (AI) Toán học (AII) Triết học đệ nhất (AIIa)Hiện tượng học (AIIb) Các khoa học chuẩn tắc Esthetics (khoa học về cái đáng được mong muốn) Đạo đức học Logic học (IIc) Siêu hình học Siêu hình học chung (bản thể học) Siêu hình học tâm lý Siêu hình học vật lý (AIII) Các khoa học cụ thể (AIIIa) Các khoa học vật lý Vật lý học quy luật Vật lý học phân loại Vật lý học mô tả (AIIIb) Các khoa học tâm lý Tâm lý học quy luật Tâm lý học phân loại Tâm lý học mô tả (B) Khoa học đánh giá (Khoa học hồi tưởng) (C) Khoa học thực tiễn Khoa học ứng dụng L.V. Hung / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-72 69 tiết (trong Minute Logic, 1902) Nhánh của khoa học (Branch of science) Các nhánh khoa học khác biệt nhau ở mục đích cơ bản. Trong một nhánh khoa học, các nhà khoa học có cùng một động lực hoạt động, mặc dù các nhà nghiên cứu trong các lớp (class) khác nhau dường như sống trong một thế giới khác nhau Ba nhánh khoa học trong phân loại của Pierce: Khoa học Khám phá, khoa học Hồi tưởng và khoa học Thực hành. Lớp của khoa học (Class of science) Các lớp khoa học khác nhau có sự khác biệt căn bản trong quan sát. Các quan sát trong một lớp khoa học (chẳng hạn các khoa học vật lý và tâm lý không thể tạo ra loại thông tin mà lớp khoa học khác (chẳng hạn Toán học) cần cho quan sát của mình. Trong một lớp khoa học, các nhà nghiên cứu cảm thấy họ đang cùng tìm hiểu một đối tượng lớn cùng nhau (các loại nghiên cứu khác nhau nhưng liên kết với nhau). Ba lớp khoa học của khoa học khám phá: Toán học thuần túy, triết học và các khoa học cụ thể. Bộ của khoa học (Order of science) Hai bộ trong cùng một lớp hay phân lớp khoa học có thể khác nhau về thứ bậc, cái này chung hơn thì cái kia cụ thể hơn. Trong một bộ, các nhà nghiên cứu theo đuổi cùng một kiểu nghiên cứu chung (nhưng làm việc với các loại khái niệm khác nhau) Vật lý học tổng quát thì chung, Vật lý học, sinh học, địa lý học là những khoa học cụ thể hơn. Họ của khoa học (Family of science) Mỗi họ khoa học có tên riêng, các tạp chí chuyên ngành và các hiệp hội riêng, mỗi họ nghiên cứu một nhóm các thực kiện. Các nhà nghiên cứu trong cùng một họ khoa học hiểu nhau theo một cách chung và liên kết với nhau một cách tự nhiên. Trong cùng một họ khoa học, các nhà nghiên cứu sở hữu chung những khái niệm tổng quát (nhưng khác biệt nhau về các kỹ năng cụ thể) Thiên văn học và Địa lý học là những bộ môn khác nhau nằm trong cùng một họ khoa học. Chi của khoa học (Genus of science) Ở các nhóm này, Pierce không đưa ra định nghĩa, ông viết: “Tôi không thể đưa ra những định nghĩa về chi và loài của khoa học mà không đưa ra phân loại chi tiết của các nhóm này.” Trong cùng một chi khoa học, các nhà nghiên cứu có chung các kỹ năng (nhưng khác biệt trong sự thành thạo liên quan đến mỗi nhóm thực kiện cụ thể) Pierce đưa ra ví dụ về điện học và quang học như là hai bộ môn thuộc cùng một chi khoa học Loài của khoa học (Species of science) Loài khoa học là sự phân chia nhỏ nhất mà trong đó mỗi loài vẫn còn có các hiệp hội, tạp chí và mỗi nhà nghiên cứu đều được được bảo chất lượng bởi chúng một cách đầy đủ, tức là họ thành thạo và chi tiết trong mọi phần của loài. Ngư loại học và Côn trùng học như là những bộ môn thuộc cùng một loài khoa học. Giống của khoa học (Variety of science) Các nhà khoa học trong một giống khoa học tập trung vào một chủ đề nghiên cứu của giống, nhưng chủ đề không đủ đa dạng để thành lập các Pierce đưa ra ví dụ về các giống khoa học như: Nghiên cứu về Kant (Kant học), L.V. Hung / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 1 (2019) 62-72 70 hiệp hội và tạp chí chuyên ngành riêng cho mình nghiên cứu về Spinoza 4. Ưu và nhược điểm của bảng phân loại Pierce 4.1. Ưu điểm các bảng phân loại khoa học của Pierce Bảng phân loại của Pierce không mang tính tùy tiện, mà có những tiêu chí cụ thể để phân loại. Những tiêu chí này đi từ một ý đồ nhất quán và thống nhất của khoa học, muốn vạch ra khung của toàn bộ khoa học như một phác thảo kiến trúc; do vậy phân loại của ông rất mạch lạc và hệ thống, ít nhất là từ nguyên tắc. Phương pháp tiếp cận của Pierce có tính lịch sử và tính mở, ông nói rằng mọi phân loại đều phụ thuộc vào tình hình phát triển của khoa học đương thời, nên mọi bảng phân loại khoa học đều có thể được chỉnh sửa ở thời đại sau. Tinh thần lịch sử, tính mở trong phân loại khoa học của Pierce giúp cho các nghiên cứu sau bổ sung cho nghiên cứu phân loại của ông dưới ánh sáng của khoa học hiện tại. 4.2. Những hạn chế của bảng phân loại khoa học của Pierce Do hạn chế của thời đại và ảnh hưởng của Kant, Pierce coi Khoa học đánh giá hay Khoa học Hồi tưởng (Science of Review) là Triết học tổng hợp, tuy nhiên như chúng ta thấy Science of Review chính là Khoa học về Khoa học (Science of Science) hay Siêu khoa học (meta-science), hay Khoa học và Công nghệ luận (Science and Technology Studies). Khoa học tổng hợp này kết hợp nhiều bộ môn như triết lịch sử khoa học, tâm lý học về khoa học, xã hội học khoa học chứ không chỉ triết học [10, 11]. Từ quan hệ thứ bậc tuyến tính sang quan hệ thứ bậc hồi quy. Bởi khoa học hồi tưởng (khoa học học) kế thừa từ các khoa học khám phá và khoa học thực tiễn, vậy nên sơ đồ hợp lý phải là sơ đồ thứ bậc nhưng hồi quy như sau: Do đặc thù lịch sử, bảng phân loại của Pierce cũng chưa thể hiện được khoa học đa bộ môn, liên bộ môn và khoa học xuyên bộ môn, vốn là đặc điểm lớn và xu hướng của khoa học thời nay. Các phân loại học của khoa học thực hành (khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ) cần được phân tích rõ trong bối cảnh công nghệ và những nghiên cứu về công nghệ phát triển vượt bậc hiện nay. Khoa học mô tả Khoa học thực hành Khoa học học L.V. Hung / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-72 71 5. Ý nghĩa, ứng dụng của bảng phân loại khoa học của Pierce Phân loại khoa học giúp ích cho phương pháp nghiên cứu khoa học [10]. Nắm vững phân loại khoa học của Pierce có thể tránh được những sai lầm trong nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn việc phân biệt về khoa học khám phá (nghiên cứu cơ bản) và khoa học thực hành (nghiên cứu ứng dụng) có thể giúp người nghiên cứu khoa học tránh được sự lầm lẫn về logic về phân loại. Tác giả Vũ Cao Đàm trong các tài liệu về phương pháp luận nghiên cứu khoa học và đánh giá nghiên cứu khoa học, thường chỉ ra các lỗi của nghiên cứu do không phân biệt được các loại hình nghiên cứu như sự bất nhất giữa mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu “Mục tiêu là nghiên cứu Giải pháp, nhưng câu hỏi nghiên cứu lại là nghiên cứu giải thích” [12, 13]. Có thể nói, phân loại khoa học gián tiếp hoặc trực tiếp giúp cho quá trình nghiên cứu khoa học và đánh giá nghiên cứu khoa học được đúng đắn, chuẩn mực, logic hơn. Thông tin là một yếu tố quyết định của nghiên cứu khoa học, là nguyên liệu của nghiên cứu khoa học, việc xử lý và tổ chức dữ liệu này cần những ngành Khoa học thư viện (library science) hay khoa học tổ chức về tri thức (knowledge organisation) khi tổ chức phân loại và mã hóa các bộ môn khoa học, cần có một chuẩn mực về phân loại để giúp cho các nhà nghiên cứu tra cứu, tìm kiếm dữ liệu hiệu quả hơn. Bảng phân loại khoa học, do bộ Khoa học và Công nghệ có thể tham khảo phân loại của Pierce để điều chỉnh lại cho hợp lý hơn về mặt khoa học cũng như hiệu quả quản lý. Việc xây dựng, đánh giá, lập kế hoạch về các chiến lược, chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu khoa học quốc gia phụ thuộc vào một bảng phân loại khoa học, nếu muốn hiệu quả và thực sự khoa học, cần đặt trên một nền tảng phân loại khoa học tường minh, vững chắc, cập nhật và phù hợp với thực tế. Các quỹ khoa học và công nghệ như Nafosted cũng cần phân biệt chính xác giữa khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng, để tránh việc bỏ sót các đề tài trong phạm vi thẩm quyền của mình lẫn đưa vào các đề tài khoa học thuộc lĩnh vực khoa học ứng dụng, giảm lãng phí tài lực và nhân lực khoa học. Tóm lại, phân loại khoa học của Pierce có ý nghĩa trực tiếp và gián tiếp với cả các nhà nghiên cứu lẫn nhà quản lý khoa học, bên cạnh ý nghĩa về nhận thức và văn hóa đối với khoa học. 6. Kết luận Các bảng phân loại khoa học của Pierce ra đời trong một bối cảnh khoa học đặc thù, kế thừa và khắc phục các bảng phân loại khoa học trước đó. Phân loại khoa học của Pierce có logic nội tại và cân nhắc đến trình độ phát triển của khoa học nên có tính mở, và có thể đưa ra các khắc phục như bài viết chỉ ra. Phân loại khoa học của Pierce có ý nghĩa lớn lao đối với các ngành khoa học luận, quản lý khoa học và khoa học thư viện như bài viết đã điểm qua, tuy vậy đây là một chủ đề phức tạp, liên bộ môn, do đó được nghiên cứu, khai thác thêm. Tài liệu tham khảo [1] The Stanford Encyclopedia of Philosophy, Charles Sanders Peirce. https://plato.stanford.edu/archives/win2018/entrie s/peirce/ 2018 (Accessed 04 December 2019) [2] Arisbe, Paul Weiss Entry on Peirce in Dictionary of American Biography. sp/Weissbio.htm (1934) (Accessed 04 December 2019) [3] Bonifatii Kedrov, The History of Classification of the Sciences, Organon 1(1964) 165-185. [4] Chiara Ambrosio, The Historicity of Peirce’s Classification of the Sciences, European Journal of Pragmatism and American Philosophy 9 (2016) VIII-2. [5] Francis Bacon, New Organon, translated by Do Minh Hop and Nguyen Trong Chuan, Knowledge Publisher, Hanoi, 2016. (In Vietnamese) [6] Alex Csiszar, Broken Pieces of Fact: The Scientific Periodical and the Politics of Search in Nineteenth- Century France and Britain, PhD Thesis, Cambridge, Mass., Harvard University, 2010. [7] C. Hartshorne, P. Weiss, A.W. Burks (Eds.), Collected Papers of Charles Sanders L.V. Hung / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 1 (2019) 62-72 72 Peirce (Vol. 1), Harvard University Press, Cambridge, 1931. [8] Tampereen Yliopisto, Development of Peirce's classification of sciences - three stages: 1889, 1898, 1903. https://people.uta.fi/~attove/peirce_syst.PDF 2003 (Accessed 04 December 2019) [9] Tampereen Yliopisto, Charles Peirce's outline classification of sciences ('final vesion' 1902- 1911). 2000 (Accessed 04 December 2019) [10] Vũ Cao Đàm, Introductionary Textbook to Science and Technology Studies, University of Social Sciences and Humanities, Hanoi National University, 2009. (In Vietnamese) [11] Le Viet Hung, Application of Thomas Samuel Kuhn’s theory of science on science of science policy, Master Thesis on Science and Technology Management, Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences, Hanoi, 2019. (In Vietnamese) [12] Vu Cao Dam, Textbook on methodology of scientific research, Vietnam Education Publishing House Limited Company, Hanoi, 2016. (In Vietnamse) [13] Vu Cao Dam, Evaluating scientific research, Science and Technics Publishing House, Hanoi, 2011. (In Vietnamese)
File đính kèm:
- phan_loai_khoa_hoc_cua_charles_sanders_pierce_lich_su_noi_du.pdf