Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và vận dụng ở Việt Nam
bài viết tập trung luận giải những vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về : bản chất
của nhà nước, chuyên chính vô sản, về nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan điểm tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước và sự vận dụng vào điều kiện Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử thông qua
phân tích các quy định Hiến pháp và thực tiễn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và vận dụng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và vận dụng ở Việt Nam
chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước, về chủ nghĩa xã hội một cách máy móc, giáo điều, khi chưa có đầy đủ điều kiện, tiền đề kinh tế bảo đảm cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn minh chứng rằng, không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội với „ mo cơm nắm, quả cà“ với tấm lòng cộng sản mà đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước tình trạng đó, để khắc phục những bất cập của đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta, đưa đất nước khỏi khủng hoảng kinh tế, sửa chữa những sai lệch trong vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước, về xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quan điểm đổi mới của Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ sáu đề ra, Hiến pháp năm 1992 được ban hành thay thế cho Hiến pháp năm 1980, vốn được quan niệm là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về bản chất nhà nước vẫn trên cơ sở kế thừa quan điểm của các Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định „Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức“ „ Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội“, nhưng về chế độ kinh tế có những thay đổi căn bản, Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng“. Nhờ những đổi mới về chế độ kinh tế đã giải phóng được lực lượng sản xuất xã hội làm thay đổi dần mọi mặt đời sống xã hội. Từ những quy định của Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có thể khẳng định xây dựng chủ nghĩa xã hội là đinh hướng, là tất yếu của cách mạng Việt Nam, P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 9 nhưng tính giáo điều, máy móc về chủ nghĩa xã hội đã dần được khắc phục, đây là điểm mốc quan trọng đánh dấu sự sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin của Đảng và Nhà nước ta. Trước những thay đổi của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, Hiến pháp năm 1992, tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng nhiều nội dung trở nên không còn phù hợp. Trước đòi hỏi đó, Hiến pháp năm 2013 đã được ban hành với nhiều nội dung mới, thể hiện tư duy mới đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện hiện nay. Về bản chất của nhà nước vẫn được khẳng định như các Hiến pháp trước đây, nhưng về hình thức thực hiện quyền lực nhân dân có sự thay đổi căn bản, thể hiện sự phát triển những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác”. Quy định này của Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ rõ ràng của tư duy lập hiến Việt Nam. Tất cả các Hiến pháp trước đó, trừ Hiến pháp 1946, chỉ mới quy định các hình thức dân chủ đại diện, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong Hiến pháp. Bản chất giai cấp và bản chất xã hội của nhà nước còn được thể hiện ở chế độ kinh tế - cơ sở kinh tế của nhà nước, Hiến pháp 2013 quy định: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là sự sáng tạo chưa từng có trong lịch sử xây dựng xã hội chủ nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Những thay đổi về chế độ kinh tế trong Hiến pháp là cơ sở hiến định cho những thay đổi chính sách, thể chế kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân ngày một được nâng cao, gia nhập ngày càng sâu, rộng vào các quan hệ quốc tế, vị thế của Nhà nước ta ngày càng được khẳng định, nâng cao. Hai là, về phương thức thực hiện quyền lực nhà nước Về phương thức tổ chức quyền lực thực hiện quyền lực nhà nước, trên cơ sở quan của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, trước hết ở quan điểm về sự thống nhất của quyền lực, nhưng mỗi Hiến pháp có cách tiếp cận, giải quyết vấn đề này một cách khác nhau. Hiến pháp năm 1946, có cách tiếp cận khá lý thú, toàn diện cả về khía cạnh chính trị, xã hội và khía cạnh kỹ thuật tổ chức. Hiến pháp quy định: Điều 22 Hiến pháp năm 1946 quy định: "Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa", đến điều 43 quy định: Cơ quan hành chính (hành pháp) cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 63 " Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, các toà án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Như vậy, trong cơ cấu quyền lực gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mỗi nhánh quyền lực do một loại thiết chế nhà nước thực hiện. Như vậy, ở đây đã có sự phân biệt giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, đồng thời khẳng định sự độc lập giữa các thiết chế quyền lực nhà nước. Thêm vào đó, cơ chế "cân bằng quyền lực" được hình thành trong Hiến pháp khi quy định định thẩm quyền cụ thể của các cơ quan cao nhất của nhà nước Hiến pháp đã tạo nên cơ chế cơ chế " kiềm chế quyền lực" giữa các nhánh quyền lực nhà nước, đặc biệt là giữa lập pháp và hành pháp. Hiến pháp quy định "Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc"; "Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó Chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập một toà án đặc biệt để xét xử" Điều 51. Hiến pháp 1946 không quy định trách nhiệm của Chủ tịch nước trước nghị viện nhân dân. Trong quan hệ với Nghị viện, Điều 31 quy định" Những luật đã đựơc Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng thuận thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố". Nghị viện có quyền biểu quyết tín P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 10 nhiệm Nội các, nhưng trong hạn 24 giờ sau... Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra nghị viện thảo luận lại... nếu Nội các mất tín nhiệm phải từ chức". Hiến pháp 1959, về tổ chức để thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng có những thay đổi so với Hiến pháp 1946, thể hiện ở những quy định Hiến pháp " Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" " Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa", " Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra". Chủ tịch nước tách ra thành một định chế độc lập, không còn là người đứng đầu nhánh quyền lực hành pháp như quy định trong Hiến pháp 1946. Theo quy định Hiến pháp Chủ tịch nước có những quyền mang tính biểu tượng nhà nước như những người đứng đầu nhà nước của các quốc gia khác "thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về mặt đối nội và đối ngoại" và những quyền khác quy định tại các điều 63, 64. Quyền hạn thực quyền của Chủ tịch nước gồm quyền " thống lĩnh lực lượng vũ trang toàn quốc, giữa chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng" quyền triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt". Còn Hội đồng Chính phủ được xác định là " Cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa".Từ những quy định này có thể nhận thấy, bắt đầu từ Hiến pháp năm 1959 đã hình thành cơ chế tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, về mặt hành chính thì Hội đồng Chính phủ chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Những quy định này của Hiến pháp, như là sự tiếp thu những luận điểm cơ bản của C.Mác về tổ chức các cơ quan nhà nước theo mô hình Công xã Pari; theo mô hình chính quyền Xô viết do V.I. Lê nin khởi xướng và áp dụng ở nước Nga Xô viết. Theo quy định Hiến pháp quyền xét xử do Toà án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án đặc biệt do Quốc hội thành lập để thực hiện. Hiến pháp 1980 bên cạnh những kế thừa về quyền lực nhân dân ở các Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 1980 đi theo hướng tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực nhà nước. Điều này thể hiện ở quy định: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Như vậy, Chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của Quốc hội, chứ không phải cơ quan hành chính cao nhất của nước. Quan điểm tập quyền, tập trung quyền lực vào Quốc hội được thể hiện càng rõ với quy định: Quốc hội có thể đặt cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn mới" và khi cần Quốc hội có thể trao cho Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng những nhiệm vụ, quyền hạn mới. Với cơ chế này có thể dẫn đến nhận thức là: quyền lực của Quốc hội không bị hạn chế bởi Hiến pháp, bởi pháp luật. Với mô hình này, có thể liên tưởng đến quan điểm “ tất cả quyền lực” tập trung vào các Xô viết. Với cơ chế như vậy, việc phân công lao động quyền lực không rõ ràng, chế độ trách nhiệm tập thể được đề cao, còn trách nhiệm của cá nhân bị “mờ nhạt dần”, cũng là nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động của toàn bộ máy nhà nước. Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) bắt đầu có xu hướng giảm tính tập quyền, tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội, thể hiện qua quan điểm “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, nhưng vẫn giữ quan điểm “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”, nhưng những quy định về “ đặc quyền” tự quyết định của Quốc hội không còn được quyết định như Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 2013, thì sự phân công quyền lực được thể hiện rõ ràng hơn bởi quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quốc hội là cơ quan đại biểu P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 11 cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Từ những quy định của Hiến pháp, có thể khẳng định rằng, việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về tổ chức quyền lực nhà nước, ở khía cạnh chính trị, xã hội trong các Hiến pháp luôn khẳng định sự thống nhất của quyền lực nhà nước, nhưng về sự phân công quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp luôn có những thay đổi: sự phân công rõ nét nhất được thể hiện trong Hiến pháp 1946, bị mờ dẫn đi trong Hiến pháp 1959, đặc biệt là Hiến pháp 1980, đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì tư tưởng về “sự phân công quyền lực” bắt đầu được thể hiện, và được thể hiện rõ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và được bổ sung thêm cơ chế “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp”. Tóm lại: những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước bao gồm rất nhiều nội dung: về bản chất giai cấp, bản chất xã hội của nhà nước, về đấu tranh giành chính quyền, lý thuyết đập tan bộ mày nhà nước cũ, về chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, của giai cấp công nhân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, về sự tiêu vong của nhà nước và nhiều vấn đề cốt lõi khác. Trong quá trình vận dụng những quan điểm này ở Việt Nam từ năm 1945 tới nay được thể hiện rõ nét nhất qua các bản Hiến pháp, được vận dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam với những mức độ khác nhau, trong những chính sách, quyết sách đôi khi còn máy móc, giáo điều ít sáng tạo đã dẫn đến những hệ quả tiêu cực nhất định. Ngày nay trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi cần phải vận dụng những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về nhà nước một sách sáng tạo, không ngừng bổ sung những luận điểm đó với những nội dung mới, phù hợp với điều kiện mới. Tài liệu tham khảo [1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr, 255. [2] V.I. Lê nin, Toàn tập, tập 33, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva,1976,tr.110. [3] C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.585. [4] V.I. Lê-nin: Toàn tập, t,33, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ-va, 1981, tr 303 [5] V.I.Lê-nin:Sđd,t37,tr.122 [6] V.I. Lê nin, Toàn tập, t, 39, Nxb, Tiến bộ, Matxcơva,1977,tr.76 . [7] V.I. Lê-nin: Toàn tập, t,34, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ- va, 1976, tr 52 [8] V.I. Lê-nin: Toàn tập, t,21, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ- va, 1980, tr 150 [9] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 1994, tr.253. [10] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t,35, tr.384. [11] ( 11) (12) (13) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, t 33, tr 101-102,tr. 28, tr.111 [12] (14 )(15) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, t 31, tr 356, tr.356. [13] (16).V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ-va, 1978, t 43, tr 380 [14] (17).V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ-va, 1981, t 31, tr 356. [15] (18).V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ-va, 1978, t 33, tr 109. [16] (19) (20) (21) C. Mác - Ph.Angghen. Tuyển tập. T.1. NXB. Sự thật. H. 1980. tr. 315;tr. 407; tr. 405. [17] (22)Mác- Ph. ănggen Tuyển tập. NXB. Sự thật. H. 1970.tr. 627. [18] (23) V. I. Lênin. Toàn tập. T. 38. NXB. TB. M. 1978. tr. 59.
File đính kèm:
- nhung_luan_diem_can_ban_cua_chu_nghia_mac_lenin_ve_nha_nuoc.pdf