Nhìn lại kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng phát triển năm 2021
Năm 2020 được xem là một năm của những khó khăn và thách thức. Kinh tế thế giới được dự
báo suy thoái nghiêm trọng nhất trong lịch sử, tăng trưởng của các nền kinh tế lớn đều giảm sâu
do ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng
với tốc độ tăng GDP ước tính đạt 2,91%. Vậy triển vọng tăng trưởng năm 2021 sẽ như thế nào,
những thuận lợi và khó khăn nào đang chờ đón nền kinh tế Việt Nam trong năm nay? Bài viết của
tác giả sẽ nhìn lại nền kinh tế Việt Nam năm 2020 và đánh giá triển vọng phát triển năm 2021.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Nhìn lại kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng phát triển năm 2021", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhìn lại kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng phát triển năm 2021
bệnh không còn. Đại dịch càng chậm được khống chế thì sức ép đối với nền kinh tế sẽ càng lớn, những ảnh hưởng tiêu cực sẽ càng trầm trọng và quá trình hồi phục nền kinh tế sẽ càng khó khăn hơn. Do vậy, triển vọng tăng trưởng kinh tế năm 2021 của Việt Nam sẽ phụ thuộc khá lớn vào “ẩn số” mang tên COVID-19. Trái với những kỳ vọng lạc quan ban đầu của thế giới rằng dịch bệnh sẽ sớm tạo đỉnh ngay trong năm 2020, cho đến nay tình hình vẫn khá phức tạp khi số ca nhiễm mới hàng ngày vẫn đang tăng cao hơn trước, buộc nhiều quốc gia phải siết chặt phong tỏa trở lại. Niềm hy vọng chính của thế giới trong việc khống chế dịch bệnh được đặt vào việc tìm ra vắc-xin COVID-19. Cho đến nay, đã có những tín hiệu tích cực khi đang có nhiều loại vắc-xin được phát triển, một số đã hoàn thành thử nghiệm và bắt đầu đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều ẩn số về mức độ công hiệu của nó cũng như khả năng phổ biến rộng rãi vắc-xin khi mà năng lực sản xuất vắc-xin khó nhanh chóng đáp ứng toàn bộ nhu cầu của toàn thế giới. Như vậy, nhiều khả năng đại dịch sẽ còn kéo dài trong phần lớn năm 2021. Cú sốc COVID-19 còn gây ra những tác động mang tính cấu trúc đối với nền kinh tế. Đó là những thay đổi trong lối sống, thói quen tiêu dùng và tiết kiệm ảnh hưởng đến xu hướng tiêu dùng và đầu tư trong tương lai; những thách thức mới từ môi trường quốc tế hậu đại dịch do sự gia tăng căng thẳng địa chính trị, sự mạnh lên của chủ nghĩa bảo hộ và sự suy giảm hợp tác trong lĩnh vực chính sách toàn cầu. Không gian chính sách tiền tệ thu hẹp, thâm hụt tài khóa và nợ công gia tăng khiến quá trình hồi phục của nền kinh tế sẽ phải mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể những động lực tăng trưởng cơ bản, tác giả cho rằng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa rời khỏi xu hướng tăng trưởng trung - dài hạn: Thứ nhất, đầu tư công tiếp tục được đẩy mạnh giải ngân và có điều kiện tăng mạnh giải ngân trong năm tới khi Chính phủ cho khởi công các dự án đầu tư công lớn; lãi suất ở mức thấp tiếp tục được duy trì; chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đã bắt đầu có hiệu lực (từ 30/8/2020). KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 176 Thứ hai, là sự phục hồi tăng trưởng của các thị trường đối tác lớn. Sự phục hồi này có thể hỗ trợ gia tăng xuất khẩu của Việt Nam năm 2021. Dự báo của hầu hết các tổ chức quốc tế cho thấy, kinh tế thế giới và các nước có thể đạt tăng trưởng cao trong năm 2021, đặc biệt là các quốc gia đối tác thương mại, đầu tư lớn của Việt Nam, như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các đối tác khác. Trong bối cảnh đó, EVFTA cùng với CPTPP và RCEP được cho là nhân tố tích cực, hỗ trợ kinh tế Việt Nam phục hồi tốt hơn trong năm 2021 và 2021 - 2025. Xuất khẩu sang Mỹ và Trung Quốc có thể tiếp tục duy trì trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung chưa có dấu hiệu cải thiện (ngay cả khi tăng trưởng kinh tế Trung Quốc ở mức thấp, kinh tế Mỹ giảm sâu, xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này vẫn tăng trưởng mạnh). Với triển vọng tốt hơn trong năm 2021 ở cả hai thị trường lớn, xuất khẩu của Việt Nam càng có cơ sở kỳ vọng tăng tốc. Dù vậy, xuất khẩu sang Mỹ đang đối mặt với rủi ro lớn khi Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách “quốc gia thao túng tiền tệ”. Thứ ba, là “thương hiệu quốc gia” của Việt Nam đang cho thấy “sức hấp dẫn” đáng kể đối với các nhà đầu tư quốc tế dựa trên khả năng chống chịu của nền kinh tế trong đại dịch, triển vọng phục hồi sau đại dịch và các cơ hội từ các FTA. Việt Nam cũng có khả năng được hưởng lợi từ sự dịch chuyển các chuỗi cung ứng sang những quốc gia có chi phí thấp hơn. Thực tế cho thấy, mặc dù vốn FDI đăng ký năm 2020 giảm khoảng 15% nhưng vốn thực hiện giảm rất nhẹ (2%). Do đó, có thể kỳ vọng khi đại dịch được kiểm soát, trạng thái bình thường mới được nhiều quốc gia áp dụng, FDI vào Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, tạo cơ sở vững chắc hơn cho khả năng phục hồi tăng trưởng năm 2021 và những năm tiếp theo. Thứ tư, môi trường kinh doanh đang ngày càng được cải thiện tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển thuận lợi. Định hướng chính sách trong những năm gần đây dành sự ưu tiên lớn cho phát triển kinh tế tư nhân, trong đó tập trung vào các chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát triển hạ tầng giao thông, năng lượng và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong năm 2020, nhiều luật mới được ban hành gồm Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác công tư (PPP) có hiệu lực từ năm 2021, kỳ vọng sẽ tiếp tục góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư tư nhân. Chất lượng tăng trưởng cũng được nâng cao nhờ đóng góp của các yếu tố khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng lớn trong cơ cấu tăng trưởng kinh tế. Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin có sự cải thiện vượt bậc (từ hạng 95 lên hạng 41 thế giới, theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới), là động lực chính nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và năng suất của nền kinh tế. Thứ năm, trong nội tại nền kinh tế, tiêu dùng nội địa và đầu tư công vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng trong phục hồi tăng trưởng kinh tế năm 2021. Tiêu dùng nội địa, đóng góp khoảng 68-70% trong GDP, có khả năng phục hồi nhờ yếu tố tâm lý thị trường và thu nhập được cải thiện. Đầu tư công nhiều khả năng tiếp tục được thúc đẩy bởi các dự án lớn bắt đầu triển khai từ năm 2020, cùng với nỗ lực của Chính phủ, bộ, ngành và địa phương hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo sự lan tỏa đối với các thành phần, lĩnh vực khác trong xã hội. Thứ sáu, khu vực công nghiệp - dịch vụ có thể đạt mức tăng trưởng cao hơn trong năm tới (từ mức thấp của năm 2020) nhờ sự phục hồi của thị trường tiêu thụ và các nguồn cung ứng. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, bán buôn, bán lẻ và vận tải, kho bãi được kỳ vọng phục hồi mạnh, trở lại vai trò dẫn dắt, động lực cho tăng trưởng kinh tế năm 2021. Khu vực nông KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN 177 nghiệp được dự báo tiếp tục tăng trưởng ổn định. Dài hạn hơn, lĩnh vực kinh doanh dựa trên nền tảng số có điều kiện để phát triển nhanh. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ được giao dịch qua mạng và các nền tảng số có sự tăng trưởng mạnh trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Riêng dịch vụ tài chính số, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam hiện có mức tăng trưởng ấn tượng nhất trong khu vực. Đi cùng với những tín hiệu tích cực, đầy “lạc quan” về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2020, theo tác giả, vẫn còn những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến triển vọng kinh tế của đất nước năm 2021: Đại dịch COVID-19 kéo dài trên toàn cầu sẽ là nguy cơ lớn nhất; căng thẳng thương mại toàn cầu, dẫn tới gia tăng bảo hộ thương mại và các rủi ro tài chính có thể trầm trọng thêm bởi đại dịch kéo dài. Tiêu dùng nội địa tiếp tục ở mức thấp bởi thu nhập hộ gia đình và doanh nghiệp giảm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và thêm nhiều doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động. Triển vọng đầu tư không đồng đều, đầu tư tư nhân còn yếu và đầu tư nước ngoài liên quan đến thương mại tiếp tục giảm. Bên cạnh đó, tác động của các chính sách kích thích kinh tế khá hạn chế do dư địa của các chính sách tài khóa và tiền tệ hiện nay ở các quốc gia phát triển đều đang hạn hẹp dần. Hệ quả của các gói kích thích khối lượng tiền lớn tung vào thị trường trong khi cơ hội kinh doanh chưa phục hồi có thể làm tăng nguy cơ bất ổn tài chính, vĩ mô toàn cầu. Nhiều quốc gia trên thế giới đang trong xu hướng “khủng hoảng chu kỳ”, “khủng hoảng cấu trúc” (như EU) trước khi đại dịch COVID-19 diễn ra. Kinh tế thế giới và các nước đối tác lớn dự báo khả năng phục hồi trở lại trạng thái trước khi đại dịch COVID-19 sẽ cần thời gian khoảng 2 - 4 năm tùy thuộc mức độ tác động. Các rủi ro địa chính trị có xu hướng tăng lên thời kỳ hậu dịch COVID-19. Trật tự chính trị có xu hướng dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông, do hậu quả dịch COVID-19 để lại cho các nước phương Tây khá nặng nề, thậm chí là nguy cơ khủng hoảng nợ công. Căng thẳng thương mại giữa các quốc gia vẫn tiếp diễn và chuyển sang cuộc chiến về công nghệ. Bản đồ thương mại hai chiều giữa các quốc gia cũng có xu hướng thay đổi trong trung hạn. Hiện tại, Việt Nam đang kiểm soát khá tốt tình hình dịch bệnh, song sự bất định của bối cảnh chung dẫn đến nhiều thách thức cho quá trình khắc phục hậu quả của khủng hoảng COVID-19. Kinh tế thế giới và các nước đối tác quan trọng chưa thực sự thoát khỏi khó khăn, quá trình phục hồi không vững chắc và chứa đựng nhiều rủi ro khiến triển vọng gia tăng xuất khẩu, thu hút đầu tư và quá trình phục hồi các chuỗi cung ứng đối với Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Các chuỗi giá trị toàn cầu đang trong giai đoạn “tái định hình” dưới tác động của COVID-19, Việt Nam có cơ hội tham gia vào quá trình tái phân bổ các cơ sở sản xuất kinh doanh của các tập đoàn đa quốc gia. Tuy nhiên, cơ hội tham gia của Việt Nam không dễ dàng bởi tác động của số hóa, chủ nghĩa bảo hộ và năng lực hấp thụ FDI cũng như khả năng liên kết của FDI với SMEs (doanh nghiệp nhỏ và vừa) trong nước. Trong nội tại nền kinh tế, quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế năm 2021 đối mặt với một số thách thức: tác động, hiệu quả của các chính sách kích thích kinh tế khá hạn chế, nhiều đối tượng khó khăn trong việc tiếp cận các gói hỗ trợ; triển vọng đầu tư không đồng đều, đầu tư tư KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 178 nhân vẫn yếu; sức khỏe của doanh nghiệp không dễ dàng hồi phục ngay sau thời gian dài khó khăn. Xu hướng phục hồi tăng trưởng của xuất khẩu, của các ngành kinh tế (các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ du lịch, lữ hành) có thể chưa chắc chắn trong năm 2021 nếu tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp. Ngoài ra, còn có sức ép lạm phát và bất ổn vĩ mô do rủi ro chính sách siêu nới lỏng tiền tệ, tài khóa từ bên ngoài và chính sách tiền tệ mở rộng trong nước. Độ bền vững ngân sách Nhà nước bị đe dọa nếu mức chi ở mức cao. Chính vì vậy, việc đánh giá triển vọng phát triển kinh tế năm 2021 của Việt Nam dù lạc quan nhưng cũng không thể chủ quan. 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Trong năm 2021 và những năm đầu của giai đoạn 2021 - 2025, Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục tập trung thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh hiệu quả, vừa nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới”. Chính phủ cần có những bước đi nhất quán và có sự điều phối rõ ràng để ứng phó với đại dịch, các chính sách cần ưu tiên bảo vệ tính mạng và điều kiện sống cho người dân, đặc biệt là những nhóm dễ chịu tác động, và đảm bảo người lao động trở lại làm việc, các doanh nghiệp nối lại hoạt động trong môi trường an toàn. Đây là những điều kiện thiết yếu để bảo đảm kinh tế khu vực sẽ dần hồi phục một cách toàn diện và bền vững. Cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, vốn ODA; tận dụng tốt cơ hội của các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết; tiếp tục miễn, giảm lệ phí, kéo dài thời hạn visa du lịch; kiểm soát mặt bằng giá cả. Các cơ quan chức năng cần xem xét hỗ trợ doanh nghiệp được hoãn, miễn giảm nghĩa vụ và chi phí về tài chính với NSNN. Các tổ chức tín dụng cần có phương án tổ chức kinh doanh phù hợp, không ảnh hưởng đến khách hàng, xem xét giảm lãi suất, giãn nợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình chịu nhiều ảnh hưởng, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, tăng cường các gói hỗ trợ tín dụng, hoạt động tư vấn, thông tin đến khách hàng về điều kiện tiếp cận vốn vay và trả nợ tín dụng ngân hàng. Cùng với đó, các gói hỗ trợ mới cho doanh nghiệp và người dân cần mở rộng hơn về đối tượng, đơn giản hơn về thủ tục và bao quát các lĩnh vực dân sinh; kiên quyết phòng tránh các rủi ro, thất thoát, lạm dụng, trục lợi cá nhân hoặc lợi ích nhóm. Đặc biệt, thời gian trước mắt cần tập trung giải quyết nút thắt thiếu đồng bộ trong chuỗi cung ứng giá trị của nhiều ngành hàng theo hướng: tăng tổ chức lại sản xuất, tái cơ cấu thị trường, mở rộng thị trường quốc tế, coi trọng thị trường nội địa; đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào, phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao hàm lượng chế biến và giá trị tăng sản phẩm; đẩy mạnh tổ chức xúc tiến thương mại, đưa hàng hóa nông sản Việt vào tiêu thụ trong các hệ thống, chuỗi siêu thị lớn; khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng bảo quản, chế biến nông sản; điều chỉnh cơ cấu một số đối tượng cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với nhu cầu của thị trường tiêu thụ và lợi thế so sánh của từng địa phương. Ngoài ra, việc phụ thuộc quá nhiều vào xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế trở nên mong manh trước các cú sốc đến từ bên ngoài. Thực tế này đòi hỏi Việt Nam cần phải đa dạng hóa hơn nữa các đối tác thương mại, từ đó giảm thiểu những cú sốc đến từ một đối tác thương mại cụ thể. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN 179 Đẩy mạnh phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học công nghệ. Tập trung nguồn lực để phát triển một số nền tảng công nghệ dùng chung, các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia cốt lõi; bảo đảm hạ tầng kỹ thuật an toàn, an ninh thông tin. Xây dựng và phát triển hệ thống trung tâm đổi mới sáng tạo cấp quốc gia, vùng và địa phương; hỗ trợ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với xu thế mới. Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ an sinh xã hội, giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho người lao động sớm quay trở lại thị trường, bảo đảm đủ lực lượng lao động khi bước vào giai đoạn tăng cường sản xuất, kinh doanh sau dịch. Tập trung hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, đào tạo lại người lao động đáp ứng yêu cầu mới; đẩy mạnh kết nối cung, cầu lao động trong nước, gắn với thị trường lao động quốc tế. Mặc dù còn đối mặt với nhiều khó khăn cả bên trong lẫn bên ngoài nhưng kinh tế Việt Nam vẫn chứng tỏ sức hút từ hội nhập và tiềm năng của một nền kinh tế năng động. Những kết quả tích cực mà kinh tế Việt Nam đạt được trong năm 2020 sẽ góp phần tạo đà cho triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2021. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ (2021), Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/20201 Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021. 2. Nguyễn Thị Phương Dung (2020), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 12/2020. 3. Hoàng Nữ Ngọc Thủy - Lương Minh Hiển (2021), Triển vọng tăng trưởng 2021: Động lực và thách thức, Tạp chí Điện tử VnEconomy. 4. Công ty Kiểm toán PWC Việt Nam (2020), Đánh giá tác động của đại dịch COVID-19: Phân tích các tác động tiềm ẩn của COVID-19 đối với kinh tế Việt Nam. 5. Nguyễn Minh Phong (2020), Dự báo của thế giới về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2020 - 2021, Tạp chí Ngân hàng số 21/2020.
File đính kèm:
- nhin_lai_kinh_te_viet_nam_nam_2020_va_trien_vong_phat_trien.pdf