Nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng kế toán chi phí môi trường trong các doanh nghiệp du lịch
Kế toán chi phí môi trường đang là một phương phấp hết sức mới mẻ ở
Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác trên thế giới. Do
đó, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vận dụng kế
toán chi phí môi trường hiệu quả sẽ giúp cho các doanh nghiệp ngày
càng đứng vững trên thương trường và khẳng định vị thế của mình trong
lĩnh vực du lịch - nhà hàng - khách sạn.
Nội dung của bài viết sẽ trình bày các nhân tố khách quan và chủ quan
tác động đến việc vận dụng kế toán chi phí môi trường trong các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực du lịch - nhà hàng - khách sạn trên địa bàn thành
phố Bà Rịã.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng kế toán chi phí môi trường trong các doanh nghiệp du lịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng kế toán chi phí môi trường trong các doanh nghiệp du lịch
iệc kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động môi trường của đơn vị nhằm đảm bảo kinh doanh đúng pháp luật, canh tranh lành manh. 4. Đối tượng nghiên cứu Công tác kế toán chi phí môi trường trong các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh du lịch - nhà hàng - khách sạn trên thành phố Bà Rịa. Từ đó, tác giả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán chi phí môi trường trong các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh du lịch - nhà hàng - khách sạn trên thành phố Bà Rịa. 5. Phạm vi nghiên cứu Công tác kế toán tài chính và kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh du lịch - nhà hàng - khách sạn trên thành phố Bà Rịa. 6. Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán chi phí môi trường Thứ nhất, nhận thức của nhà quản trị doanh nghiệp đối với các vẩn đề môi trường: KTCPMT nói chung được thiết kế trước hết nhằm trợ giúp cho quản lý môi trường và quản lý các đối tượng môi trường trong DN. Vai ừò của KTCPMT, như đã phân tích, ngày càng ừở nên quan trọng đối với khu vực sản xuất, nhưng không nhận được sự quan tâm như nhau ở tất cả các DN. Điều này bắt nguồn từ việc các nhà quản lý cho rằng chi phí môi trường tại đơn vị của họ là không đáng kể, đặc biệt là dưới góc độ tài chính. Vì vậy, có thể cho rằng, nếu như chi phí môi trường được cho là không trọng yếu, các quyết định về quản lý chi phí môi trường chắc chắn sẽ không được thực hiện. Neu một nhà quản trị không nhận thức được các lợi ích do kế toán môi trường mang lại thì KTCPMT sẽ ít khả năng được ứng dụng cho mục tiêu quản lý chi phí môi trường. Vì thế, nhận biết tầm quan trọng của CPMT trong nội bộ tổ chức giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy áp dụng KTCPMT. Đó chính là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới khả năng áp dụng KTCPMT trong DN. Thứ hai, nhân tố hiệu quả tài chính: Liên quan đến khả năng áp dụng KTCPMT trong DN, cũng có những ý kiến cho rằng, các khó khăn về tài chính cũng tạo ra những áp lực cho các nhà quản lý trong việc phải gia tăng lợi nhuận, vì thế không khuyến khích họ chú trọng tới cải thiện và đo lường hiệu quả phi tài chính, trong đó có hiệu quả môi trường. Mặc dù KTCPMT có khả năng cải thiện hiệu quả tài chính và hiệu quả môi trường, nhưng nó không được nhấn mạnh khi một tổ chức đang phải đối diện vói các áp lực tài chính. Vì thế có thể nói, các cân nhắc tới hiệu quả tài chính cũng là nhân tố tiềm tàng có ảnh hưởng tới khả năng áp dụng KTCPMT trong DN. Thứ ba, khả năng thu thập, xử lý và cung cấp thông tin: Các cản trở về thu thập, xử lý thông tin phát sinh chủ yếu từ bản chất của các khoản chi phí môi trường. Ngoại trừ một số khoản chi phí có thể xác định trực tiếp là chi phí môi trường hay chi phí cá thế, hầu hết các khoản chi phí còn lại khó có thể phân loại một cách rõ ràng do xuất phát từ bản chất không rõ ràng của chi phí môi trường. Vì thế, các khó khăn trong quá trình thu thập, xử lý thông tin được cho là một nhân tố ảnh hưởng tới khả năng áp dụng KTCPMT. Việc thiếu vắng các phương tiện đo lường và các quy định về đo lường liên quan đến các khoản chi phí môi trường tại DN, sẽ gây không ít khó khăn cho kế toán trong thu thập thông tin và cung cấp thông tin cụ thể hơn về chi phí môi trường. Các thông tin đồng bộ phục vụ cho quản lý và KTCPMT phải là một hệ thống thông tin bao gồm cả các đo lường hiện vật và đo lường giá trị. Các khó khăn trong thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về CPMT có thể khắc phục thông qua việc áp dụng đồng bộ các phương tiện đo lường cần thiết, các cải tiến ừong ghi chép kế toán và trong lựa chọn tiêu chuẩn phân bổ. Không có các kỹ thuật hỗ trợ, việc thu thập các thông tin sẽ là một ừong những nhân tố cản trở áp dụng KTCPMT trong thực tiễn. Thứ tư, áp lực từ bên ngoài doanh nghiệp: Các lý thuyết thể chế, hợp pháp và các bên liên quan đều chỉ ra rằng, sự thay đổi trong môi trường pháp luật (chính trị) sẽ tạo ra các áp lực dẫn đến sự thay đổi trong khuôn mẫu cũng như trong thực hành quản lý của một tổ chức, trong đó có kế toán. M ặt khác, áp lực từ các bên có liên quan như chính phủ, cơ quan tài chính, tổ chức môi trường, cộng đồng và chính quyền địa phương,... buộc các DN phải áp dụng KTCPMT ở các mức độ khác nhau để đảm bảo tính hợp pháp (phù hợp với các chuẩn mực và giá trị xã hội) trong hoạt động của mình. Các áp lực của luật pháp về môi trường đã buộc các DN phản ứng lại bằng cách áp dụng KTCPMT ở các mức độ khác nhau. Ngược lại, nếu không có các áp lực đó, kế toán môi trường có thể sẽ không được áp dụng khi mà lợi ích từ việc áp dụng KTCPMT chưa thực sự rõ ràng. Việc thiếu vắng các áp lực thể chế, có thể giải thích vì sao KTCPMT không được áp dụng ở nhiều DN. Nếu một tổ chức không chịu bất kỳ sức ép nào từ chính phủ hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước về việc phải nộp khoản tiền phạt tương đối lớn khi không công khai các thông tin về môi trường, họ sẽ không có động cơ thay đổi hệ thống kế toán cũng như cách thực hành kế toán hiện tại, vì KTCPMT khi đó không trở thành một nguyên tắc hoặc chuẩn mực trong hoạt động của tổ chức. Các áp lực này có thể xuất phát từ sự cưỡng chế hoặc tự nguyện của DN để thực thi các chiến lược môi trường phù họp với các chuẩn mực và giá trị xã hội. Các tổ chức tiêu dùng các nguồn lực xã hội, và xã hội sẽ đánh giá giá trị của các tổ chức ở khía cạnh tạo ra lợi ích cho cộng đồng và phù họp với pháp luật. Vì thế, các tổ chức phải nỗ lực để đảm bảo sự phù hợp giữa các giá trị của xã hội với các giá trị của tổ chức và với các chuẩn mực có thể chấp nhận. Sự phù họp giữa các giá trị xã hội, giá trị tổ chức và các chuẩn mực có thể là cơ sở cho sự tồn tại và tiếp tục hoạt động của DN. Các DN phải đáp ứng lại kỳ vọng đó, bằng cách theo đuổi các chiến lược phù họp với các chuẩn mực và giá trị của xã hội. Áp lực từ người tiêu dùng và áp lực từ người sử dụng báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến khả năng áp dụng KTCPMT có ảnh hưởng thuận chiều tới việc áp dụng loại kế toán này. Tóm lại, áp lực từ các bên liên quan đối với KTCPMT là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng áp dụng KTCPMT trong DN. Thứ năm, áp lực từ nội bộ doanh nghiệp: KTCPMT được thực hiện giúp cho DN đạt được các mục tiêu về môi trường. Các nhân tố từ áp lực nội bộ trong DN bao gồm: cơ chế chịu trách nhiệm về môi trường; gắn kết các yếu tố môi trường ừong hoạch định kế hoạch chiến lược; và người khởi xướng, lãnh đạo hệ thống kế toán và quản lý đang vận hành tại các đơn vị đòi hỏi phải có gắn kết trách nhiệm của các nhà quản lý đối với hiệu quả môi trường của họ. cần có một người phụ trách, hoặc đứng đầu bộ phận có một khuôn mẫu về chiến lược môi trường hoặc dự toán môi trường trong các kế hoạch làm việc. Vì thế, rất cần có một cơ chế chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, các DN cũng cần có các chiến lược môi trường, có sự gắn kết các yếu tố môi trường trong hoạch định kế hoạch chiến lược. Chiến lược môi trường có thể được phân loại theo cách thức hành động vì thế được đặt dưới 2 dạng: phản ứng hay phòng vệ (reactive) và chủ động hay tự nguyện (proactive). Các DN có thể tự nguyện thiết kế lại quá trình hoạt động, quá trình sản xuất, hoặc thiết kế lại sản phẩm nhằm giảm các tác động môi trường, hoặc chuẩn bị cho các quy định mới về môi trường. Các hành động đó có thể được nhìn nhận như là chiến lược chủ động về môi trường (proactive strategy). Khi các DN lựa chọn chiến lược chủ động, nhiều khả năng họ phải điều chỉnh, hoặc thay đổi hệ thống kế toán cho phù họp với chiến lược mà DN đang theo đuổi và vì thế cũng phải tổ chức lại cách thức thực hành kế toán. Nếu như một DN gắn kết các vấn đề môi trường vào chiến lược kinh doanh và thực hiện các chương trình, hành động để hỗ ừợ cho thực thi chiến lược môi trường, thì hệ thống kế toán với tư cách là một công cụ quản lý cũng sẽ có những sự thay đổi để có thể cung cấp thông tin một cách thích đáng hơn cho chiến lược hoạt động (đã thay đổi) của DN. Tóm lại, môi trường đã trở thành vấn đề quan trọng và cấp thiết hiện nay, nhiều quốc gia đã gắn kết các vấn đề môi trường vào hệ thống kế toán truyền thống của DN đang được áp dụng. Kế toán môi trường tại Việt Nam là một lĩnh vực mới, có vai trò quan trọng đối với quản trị DN và các đối tượng có lợi ích trực tiếp và gián tiếp bên ngoài đơn vị trong việc ra quyết định. KTCPMT chỉ được phát huy tốt nhất khi thông tin KTCPMT được cung cấp đầy đủ, kịp thời, minh bạch, đảm bảo sự tin cậy cho người sử dụng. Tính đầy đủ, kịp thời, độ tin cậy của thông tin KTCPMT phần lớn phụ thuộc vào chất lượng, hiệu quả của tổ chức công tác KTCPMT. Vì vậy, việc tổ chức công tác kế toán chi phí môi trường trong doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh du lịch - nhà hàng - khách sạn trên thành phố Bà Rịa nói riêng và các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực du lịch - nhà hàng - khách sạn ữên cả nước nói chung cần được quan tâm đến.D Tài liệu tham khảo [1 ] Hoàng Thụy Diệu Linh, 2013. Ke toán tài chính môi trường và định hướng áp dụng vào Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đ ại học kinh tế TP.HỒ Chí Minh. [2 ] Hoàng Thị Bích Ngọc, 2017. K e toán quản trị chi p h ỉ môi trường trong các D N chế biến dầu khỉ thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam. Luận án Iĩến sĩ. Đ ại học Thương mại. [3 ] Lâm Thị Trúc Linh, 2017. K ế toán môi trường - Sự cẩn thiết phải áp dụng cho các D N nuôi trồng thủy sản. Tạp chí K ể toán và Kiểm toán, kỳ tháng 6/2017. [4 ] Ngô Thị Hoài Nam, 2017. “K ế toán quản trị CPMT trong các doanh nghiệp chế biến Thủy sản ’’. Luận án Tiến sĩ. Đại học Thương mại. [5 ] Trần Anh Quang (2017), M ột sổ ỷ kiến áp dụng kế toán quản trị CPMT trong các D N Việt Nam, K ỳ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: K e toán - kiểm toán và kinh tế Việt Nam vcrì Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, tháng 11/2017. [6 ] Trần Anh Quang, Bùi Thị Thu Hương (2018), K e toán môi trường trong các DNSX Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, K ỷ y ầ i Hội thảo Khoa học quốc tế ICYREB 2018: Khởi nghiệp đỗi mới sảng tạo quốc gia, HVTC, thảng 11/2018. [7 ] Trịnh Hiệp Thiện, 2010. Vận dụng kế toán quản trị môi trường vào các D N sản xuất Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tể TP. H ồ Chỉ Minh. [8 ] net/tac-dong-tich- cuc-va-tỉeu-cuc-cua-nganh-du-lỉch-toỉ- moi-truong/ truy cập ngày 15/12/2019. [9 ] https://www. vietnamplus. vn/du- lich-xanh-huong-phat-trien-ben-vung-cua- du-lich-viet-nam/615188.vnp, truy cập ngày 15/12/2019. (nếp theo trang 50) đến đánh giá rủi ro. Các nghiên cứu cho thấy sự chuyên nghiệp được hỗ trợ bởi kinh nghiệm chuyên ngành. Qua đó, các biến quan sát của thang đo kiến thức của KTV được xây dựng gồm 7 biến từ KT1 đến KT7 (Bảng 2, trang 50). Nghiên cứu sử dụng thang đo likert 5 mức độ với (5) Rất đồng ý (4) Đồng ý (3) Không có ý kiến (2) Không đồng ý (1) Hoàn toàn không đồng ý. Kết luận Bài viết tổng quan các nghiên cứu về vai trò kiến thức, kinh nghiệm và năng lực của KTV trong xét đoán chuyên môn. Từ đó, tác giả đề xuất mô hình kiểm định vai trò của kiến, kinh nghiệm và năng lực đến xét đoán chuyên môn của KTV trong các công ty kiểm toán Việt Nam. Đây là cơ sở để tác giả vận dụng kiểm đinh tại Việt Nam, sau khi hoàn thành điều ừa khảo sát đối với các KTV tại các công ty kiểm toán Việt Nam về vấn đề này. Bài viết gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo về kiểm định nhân tố ảnh hưởng đến xét đoán nghề nghiệp và ảnh hưởng của xét đoán chuyên môn đến chất lượng kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam trong thời gian tớ i.n Tài liệu tham khảo Bộ Tài chính (2012), VSA sổ 200 Agoglia, C. P , c. Beaudoin, and G. T. Tsakumis. 2009. The effect o f documentation structure and task-specific experience on au ditors’ ability to identify control weaknesses. Behavioral Research in Accounting 21 (1): 1— 17. Asbahr, K , ãRuhnke, K. (2019). Real ef fects o f reporting key audit matters on audi tors’ judgment and choice o f action. International Journal o f Auditing. doi:10.1111/ijau.l2154 Bhattacharjee, s., M. J. Maletta, and K. K. Moreno. 2007. The cascading on contrast effects on auditors’ judgments in multiple client audit environments. The Accounting Review 82 (5): 1097-117 Bonner, S. E, and B. L. Lewis. 1990. De terminants o f auditor expertise. Journal o f Accounting Research 28 (3): 1—28. Frederick, D. M., V. Heiman-Hoffman, and R. Libby. 1994. The structure o f auditors ’ knowledge o f financial statement errors. Au diting: A Journal o f Practice & Theory 13 (1) : 1-21 Libby, R., and J. Luft. 1993. Determi nants o f judgment performance in accounting settings: Ability, knowledge, motivation, and environment. Accounting, Organizations and Society 18 (5): 425-50. Mala, R., & Chand, P. (2015). Judgment and decision-making research in auditing and accounting: Future research implications o f person, task, and environment perspective. Accounting Perspectives, 14(1), 1-50. Messier, W. F. 1995. Research in and de velopment o f audit-decision aids. In Judg ment and Decision Making Research in Accounting and Auditing, eds. R. H. Ashton and A. H. Ashton. Cambridge, MA: Cam bridge University Press Nelson, M. W., and W. R. Kinney Jr, 1997, The effect o f ambiguity on loss contingency reporting judgements, The Accounting Re view 72, 257-274. Nelson, M., andH.-T. Tan, 2005, Judgment and decision making re search in auditing: a task, person, and inter personal interaction perspective, Auditing: A Journal o f Practice & Theory 24, 41—71. Hammersley, J. S. 2011. A review and model o f auditor judgments in fraud-related planning tasks. Auditing: A Journal o f Prac tice & Theory 30 (4): 101-128. Hoffman, V. B., J. R. Joe, and D. V. Moser. 2003. The effect o f constrained pro cessing on auditors ’judgments. Accounting, Organizations and Society 28 (7-8): 699-714. Hooper, C., and K. T. Trotman. 1996. Configural information processing in audit ing: Further evidence. Accounting and Busi ness Research 26 (2): 125—36. Stevens, E., Moroney, R., & Webster, J. (2019). Professional skepticism: The com bined effect o f partner style and team identity salience. International Journal o f Auditing, 23(2), 279-291. doi:10.1111/ijau.l2161 Taylor, M.H. (2000). The effects o f indus try specialization on auditors ’inherent risk as sessment and confidence judgment. Contemporary Accounting Research, 17(4), 693-712. Tan, H. T., andR. Libby. 1997. Tacit Man agerial versus Technical Knowledge as Deter minants o f Audit Expertise in the Field. Journal o f Accounting Research 35 (1): 97—113.
File đính kèm:
- nhan_to_anh_huong_den_van_dung_ke_toan_chi_phi_moi_truong_tr.pdf