Nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng và hệ quả của cảm nhận bị làm phiền trong quảng cáo trực tuyến
TÓM TẮT Mục đích nghiên cứu nhằm đo lường các yếu tố ảnh hưởng và hệ quả của cảm nhận bị làm phiền đối với quảng cáo trực tuyến tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng, dữ liệu thu thập trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2015 thông qua phỏng vấn chuyên gia, thảo luận nhóm và 160 phiếu khảo sát được phát đến đáp viên. Kết quả cho thấy tác động cùng chiều khá rõ ràng của sự che khuất nội dung và việc mất kiểm soát từ phía người dùng web đến cảm nhận bị làm phiền khi mẫu quảng cáo xuất hiện. Nghiên cứu cũng chỉ ra cảm nhận bị làm phiền tác động rõ rệt đến sự khó chịu và kéo theo là cách nhìn tiêu cực đối với trang web. Nghiên cứu xây dựng mô hình lý thuyết về cảm nhận bị làm phiền trong môi trường quảng cáo trực tuyến cùng các nhân tố tác động và biến hệ quả phát sinh. Kết quả mang đến những hàm ý quản trị trong kế hoạch tăng doanh thu đối với doanh nghiệp sở hữu trang web và chiến lược quảng cáo trực tuyến dành cho các nhà tiếp thị
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng và hệ quả của cảm nhận bị làm phiền trong quảng cáo trực tuyến
nbach's Alpha 0,86 0,902 0,864 0,799 0,834 3.1.4. Kiểm định thang đo bằng CFA Dữ liệu được đưa vào phân tích CFA với 124 Đỗ Thị Lệ Huyền. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 116-130 mô hình điều chỉnh (Hình 2). Giả thuyết H12 trực tuyến càng che khuất nội dung và càng mất thêm vào: Đặc điểm hiển thị của mẫu quảng cáo kiểm soát thì cảm nhận bị làm phiền càng cao. Đặc điểm hiển thị Sự khó chịu +(H12) +(H4) Cảm nhận bị làm phiền +(H6) -H3 Thái độ đối Sự cuốn hút đối với quảng với trang web cáo Hình 2. Mô hình nghiên cứu điều chỉnh sau phân tích EFA Kết quả phân tích CFA cho thấy mô hình giữa các khái niệm với sai lệch chuẩn kèm tới hạn có 142 bậc tự do với giá trị Chi – bình theo cho chúng ta thấy hệ số này bé hơn 1 (có phương là 184,29; giá trị p = 0,01. Mô hình có ý nghĩa thống kê). Các khái niệm nghiên cứu p < 5% tuy nhiên các chỉ tiêu khác cho thấy trong mô hình đều đạt được giá trị phân biệt mô hình này phù hợp với dữ liệu của thị (Bảng 4). Các trọng số chuẩn hóa ( i) đều trường (χ2 / df = 1,298; CFI = 0,972; TLI = lớn hơn 0,5 và đạt mức ý nghĩa thống kê (các 0,966). Các thành phần đạt được tính đơn giá trị p đều bé hơn 5%) nên các biến quan sát hướng, không có mối tương quan giữa các sai dùng để đo lường các khái niệm nghiên cứu số của các biến quan sát. Hệ số tương quan đều đạt được hội tụ. Bảng 4 Kết quả kiểm định giá trị phân biệt giữa các thành phần trong mô hình Mối quan hệ r S.E. C.R. P XP KC 0,29 0,074 3,906 *** XP TD 0,152 0,065 2,352 0,019 XP HT 0,283 0,068 4,132 *** XP CH 0,229 0,077 2,994 0,003 KC TD 0,433 0,077 5,607 *** KC HT 0,363 0,074 4,922 *** KC CH 0,232 0,078 2,955 0,003 TD HT 0,266 0,064 4,133 *** TD CH 0,077 0,07 1,107 0,268 HT CH 0,146 0,068 2,149 0,032 Đỗ Thị Lệ Huyền. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 116-130 125 Hình 3. Kết quả phân tích CFA 3.1.5. Kiểm định mô hình nghiên cứu đánh giá mức phù hợp khác đều đạt yêu cầu Kiểm định mô hình lý thuyết chính thức (Hình 4). RMSEA < 0,08 nên mô hình được Kết quả phân tích cấu trúc tuyến tính mô chấp nhận, do đó mô hình này thích hợp với dữ hình lý thuyết cho thấy có 147 bậc tự do với giá liệu thu thập từ thị trường; các mối quan hệ đều trị thống kê Chi – bình phương là 258,162 (p = có ý nghĩa thống kê (p<5%) và các thang đo 0,000). Khi điều chỉnh với bậc tự do CMIN/df lường của các khái niệm trong mô hình đều đạt = 1,756 thỏa điều kiện bé hơn 3 với quy mô giá trị liên hệ lý thuyết vì “mỗi một đo lường có mẫu < 200, điều này cho thấy mô hình thích mối liên hệ với các đo lường khác như đã kỳ hợp với dữ liệu thị trường. Hơn nữa các chỉ tiêu vọng về mặt lý thuyết” (Churchill, 2010). 126 Đỗ Thị Lệ Huyền. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 116-130 Hình 4. Kết quả SEM mô hình lý thuyết (chuẩn hóa) Bảng 5 Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các khái niệm trong mô hình lý thuyết Mối quan hệ Ước lượng ML S.E. C.R. P XP <--- HT 0,515 0,113 4,559 *** XP <--- CH 0,189 0,078 2,426 0,015 KC <--- XP 0,468 0,095 4,936 *** TD <--- XP 0,27 0,089 3,03 0,002 Kiểm định mô hình cạnh tranh trang web qua giả thuyết H7: Có mối quan hệ Chỉ số điều chỉnh (MI) từ kết quả SEM của giữa sự khó chịu và thái độ tiêu cực đối với mô hình lý thuyết có giá trị là 36,911 cho mối trang web, quan hệ cùng chiều (Hình 5). Mối tương quan giữa e21 và e22, do đó đề xuất mối quan hệ này cũng đã được đánh giá trong quan hệ giữa yếu tố khó chịu và thái độ đối với nghiên cứu của McCoy và cộng sự (2008). Đỗ Thị Lệ Huyền. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 116-130 127 Đặc điểm hiển thị +(H12) Sự khó chịu +(H4) Cảm nhận bị +(H7) làm phiền +(H6) -(H3) Thái độ đối với trang web Sự cuốn hút đối với quảng cáo Hình 5. Mô hình cạnh tranh Kết quả phân tích mô hình cạnh tranh làm tăng độ tương thích của mô hình với dữ cho thấy mô hình thích hợp với dữ liệu thị liệu thị trường (Hair, J. F., 2009). Như vậy, trường (Hình 6). So với mô hình lý thuyết sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Giả chính thức, ∆ χ 2 = 42,408> 3.84 khi giảm thuyết xây dựng trong mô hình cạnh tranh có một bậc tự do từ 147 thành 146, như vậy mối ý nghĩa thống kê (r= 0,54; se = 0,083; p quan hệ đề nghị trong mô hình cạnh tranh <5%) được chấp nhận. Hình 6. Kết quả SEM mô hình cạnh tranh 128 Đỗ Thị Lệ Huyền. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 116-130 Kiểm định ước lượng mô hình cạnh tranh bằng Bootstrap Bảng 6 Kết quả ước lượng bằng Bootstrap với N = 1000 Ước lượng ML Ước lượng Bootstrap Mối quan hệ ML S.E. SE SE-SE Mean Bias SE-Bias CR XP-HT 0,504 0,114 0,129 0,003 0,509 0,005 0,004 1,25 XP-CH 0,19 0,079 0,095 0,002 0,191 0,001 0,003 0,3333 KC-XP 0,439 0,093 0,121 0,003 0,439 -0,001 0,004 -0,25 TD-XP -0,001 0,083 0,112 0,002 -0,012 -0,011 0,004 -2,75 TD-KC 0,541 0,083 0,104 0,002 0,545 0,004 0,003 1,3333 Giả thuyết H0: Bias = 0/ Ha: Bias ≠ 0. Từ cảm nhận bị làm phiền, kết quả là 0,19 với sai Bảng 6 cho thấy các giá trị CR tính được đều lệch chuẩn se=0,079 và có mức ý nghĩa thống bé hơn 1,96 suy ra p-value >5% nên bác bỏ kê p=0,016<5% nên giả thuyết H3 không Ha và chấp nhận H0 tức độ lệch (Bias) khác 0 được chấp nhận, mối quan hệ này trái với kỳ không có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy vọng ban đầu, đó là tác động cùng chiều và 95%, do đó kết luận được các ước lượng trong mức độ giải thích không cao. Theo khảo sát, mô hình cạnh tranh có thể tin cậy được. sự cuốn hút đối với quảng cáo trực tuyến Kiểm định giả thuyết và thảo luận kết quả không làm giảm cảm nhận bị làm phiền, trái nghiên cứu lại cuốn hút càng cao càng có xu hướng làm +) Kết quả ước lượng cho thấy mối quan chệch đi mục đích chính mà người xem đang hệ giữa hiển thị và cảm nhận bị làm phiền là nhắm đến, cảm nhận bị làm phiền vì thế cũng 0,504 với sai lệch chuẩn se = 0,114, ước tăng lên. lượng này có mức ý nghĩa thống kê p<5%, +) Riêng mối quan hệ giữa cảm nhận bị như vậy giả thuyết H12 được chấp nhận. Kết làm phiền và thái độ có hệ số tương quan (- quả gần như tương đồng so với các nghiên 0,001) với sai lệch chuẩn se = 0,083 không có cứu trước, việc che khuất nội dung người ý nghĩa thống kê (p=0,993>5%), do đó bác bỏ dùng internet đang xem gây tác động khá giả thuyết H6. Như vậy mối quan hệ giữa cảm mạnh đến cảm nhận bị làm phiền hình thành nhận bị làm phiền và thái độ tiêu cực đối với trong họ. Tương tự, chấp nhận giả thuyết H4, trang web còn mơ hồ, không thể hiện rõ trong cảm nhận bị làm phiền tác động trực tiếp cùng nghiên cứu này. Kết quả mối quan hệ này chiều đến sự khó chịu (0,439). Các nghiên cũng khá mờ nhạt và không rõ ràng trong cứu trước cũng cho thấy điều tương tự, hệ số nghiên cứu của McCoys và cộng sự (2008), tương quan giữa hai mối quan hệ này đạt mức độ giải thích 5,4%. 0,687 trong quảng cáo trực tuyến (McCoy, +) Cuối cùng, kết quả ước lượng mối 2008); lớn hơn 0,7 trong nghiên cứu phát triển quan hệ trong giả thuyết H7 là 0,541 với sai thang đo cho cảm nhận bị làm phiền (Li, H., lệch chuẩn se =0,083 và có ý nghĩa thống kê Edwards, S. M. & Lee, J. H., 2002); hay mức (p=0,03< 5%) cho thấy rằng giả thuyết này độ tương quan mạnh hơn (0,83) đối với hình được chấp nhận. Sự khó chịu tác động rõ rệt thức quảng cáo qua di động (Wang, 2009). đến thái độ tiêu cực của người tiêu dùng đối +) Xét mối quan hệ giữa sự cuốn hút và với trang web và kết quả nghiên cứu này cũng Đỗ Thị Lệ Huyền. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 116-130 129 khá tương đồng trong nghiên cứu của McCoy nhà tiếp thị cũng nên thận trọng hơn trong và cộng sự (2008), qua đó nhóm tác giả đã việc tận dụng các đặc trưng nhằm làm tăng sự nhấn mạnh nếu sự khó chịu làm yếu tố trung cuốn hút đối với mẫu quảng cáo. gian giữa cảm nhận bị làm phiền và thái độ Zaichkowsky (1994) cho thấy tính cuốn hút tiêu cực đối với trang web thì mức độ giải mang đến những hiệu ứng tích cực như tăng thích tăng lên đáng kể. nhận diện thương hiệu hay mức độ nhận diện 4. Kết luận và hàm ý chính sách quảng cáo, tuy kết quả nghiên cứu cho thấy 4.1. Kết luận và đề xuất ứng dụng kết cuốn hút làm tăng tính phiền hà nhưng ở mức quả nghiên cứu độ không cao, do đó cũng không nên quá khắt Đề tài xây dựng mô hình lý thuyết bao khe với tính cuốn hút mà cần dung hòa giữa gồm các yếu tố ảnh hưởng đến cảm nhận bị nội dung quảng cáo tương đồng, nhiều ý nghĩa làm phiền và các hệ quả trong môi trường với khách hàng mục tiêu và việc lựa chọn loại quảng cáo trực tuyến. Vấn đề đã được quan hình quảng cáo trực tuyến phù hợp cùng tâm và nghiên cứu nhiều trên thế giới, tuy khung thời gian hợp lý để mẫu quảng cáo tiếp nhiên tại Việt Nam, cảm nhận bị làm phiền là cận khách hàng. Đối với các chủ sở hữu trang một khái niệm hoàn toàn mới và chưa nhận web, việc cân nhắc giữa lợi nhuận thu được và được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cái giá phải trả khi cung cấp dịch vụ quảng cứu. Thêm vào đó, đề tài còn đánh giá thêm cáo là cần thiết vì khi cảm nhận bị làm phiền tác động của “sự cuốn hút đối với quảng cáo” xuất hiện sẽ kéo theo sự khó chịu và dẫn đến đến cảm nhận bị làm phiền. Kết quả phân tích những thái độ tiêu cực đối với trang web trong cho thấy việc che phủ nội dung và quảng cáo dài hạn. xuất hiện với sự mất kiểm soát từ người dùng 4.2. Các hạn chế và hướng nghiên cứu web tác động lớn đến cảm nhận bị làm phiền tiếp theo (0,504) và khi cảm nhận bị làm phiền hình Nghiên cứu vẫn còn tồn tại vài hạn chế thành thì sẽ kéo theo sự khó chịu (0,439), nhất định như: thái độ đối với trang web còn đồng thời thái độ tiêu cực từ phía người tiêu được giải thích bởi nhiều yếu tố khác, không dùng với trang web đặt quảng cáo cũng tăng chỉ đơn thuần là hình thức quảng cáo mà nó lên (0,541). Không như dự đoán ban đầu, sự cung cấp, chẳng hạn như giao diện, tính năng cuốn hút đối với quảng cáo không làm giảm dễ sử dụng hay lợi ích thông tin. Ngoài ra, sự nhẹ cảm nhận bị làm phiền mà ngược lại, cuốn hút đối với quảng cáo là yếu tố chịu càng cuốn hút, tính phiền hà càng tăng, tuy nhiều ảnh hưởng từ chuẩn chủ quan nhiên mức độ tác động không lớn. Hệ quả né (Krugman, 1966), do đó kết quả có thể rõ ràng tránh bị loại bỏ trong quá trình nghiên cứu, do hơn khi xem xét các biến quan sát của thang đó mối quan hệ giữa cảm nhận bị làm phiền đo cuốn hút trong nghiên cứu này dựa trên và hành vi né tránh quảng cáo không thể hiện một nghiên cứu khám phá về đặc trưng sự rõ trong nghiên cứu này. cuốn hút của người Việt Nam đối với riêng Kết quả nghiên cứu đóng góp ứng dụng loại hình quảng cáo trực tuyến. Ngoài ra, mẫu thực tiễn trong chiến lược tiếp thị trực tuyến, khảo sát được thực hiện theo phương pháp lấy kế hoạch nên được tiến hành với cân nhắc kỹ mẫu thuận tiện nên tính đại diện chưa cao. càng về cách thức hiển thị hay cơ chế tiếp cận Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế nhưng khách hàng mục tiêu. Quảng cáo xuất hiện với nghiên cứu đã đóng góp về mặt lý thuyết kích thước vừa phải, vị trí phù hợp, tránh sự ồ trong việc xây dựng mô hình của cảm nhận bị ạt mang tính tấn công dồn dập là điều quan làm phiền đối với quảng cáo trực tuyến và đề trọng mà các nhà quản trị nên cân nhắc khi xuất một số hàm ý quản trị thông qua kết quả hoạch định chiến lược tiếp thị. Ngoài ra, các nghiên cứu 130 Đỗ Thị Lệ Huyền. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 56(5), 116-130 Tài liệu tham khảo Aaker, D. A. & Bruzzone, D. E. (1985). Causes of irritation in advertising. Journal of Marketing, 49(2), 47-57. Abernethy, A. M. (1991). Physical and mechanical avoidance of television commercials: An exploratory study of Zipping Zapping and Leaving. In Proceedings of the American Academy of Advertising (pp. 223-231). New York: The American Academy of Advertising. Bauer, R. A. & Greyser, S. A. (1968). Advertising in America, the consumer view. Boston: Harvard University Press. Bellamy Jr, R. V., & Walker, J. R. (1996). Television and the remote control: grazing on a vast wasteland. Guilford Press. Brehm & Jack, W. (1966). A theory of psychological reactance. New York: Academic Press. Chatterjee, P. (2008). Are unclicked ads wasted? Enduring effects of banner and pop-up ad exposures on brand memory and attitudes. Journal of Electronic Commerce Research, 9(1), 51-61. Chaudhuri, A. & Buck, R. (1997). Communication, cognition and involvement: A theoretical framework for advertising. Journal of Marketing Communications, 3(2), 111-125. Churchill, G. A. (1999). Marketing Research: Methodological Foundations. Orlando: Dryden Press, 7th ed, 32-44 Cronin, J. J., & Menelly, N. E. (1992). Discrimination vs Avoidance: 'Zipping' of Television Commercials. Journal of Advertising, 21(2), 1-7. Edwards, S. M., Li, H. & Lee, J. H. (2002). Forced exposure and psychological reactance: Antecedents and consequences of the perceived intrusiveness of Pop-up ads. Journal of Advertising, 31(3), 83-95. Ha, L. (1996). Advertising clutter in consumer magazines: Dimensions and effects. Journal of Advertising Research, 36(4), 76-85. Hair, J. F. (2009). Multivariate data analysis. Upper Saddle River, NJ: Prentice hall, 5(3), 207-219. Harker, D. (2008). Regulating online advertising: The benefit of qualitative insights. Qualitative Market Research: An International Journal, 11(3), 295-315. Kennedy, J. (1971). How program environment affects TV commercials. Journal of Advertising Research, 11(1), 33-38. Krugman, H. (1966). The measurement of advertising involvement. Public Opinion Quarterly, 30(4), 583-596. Li, H., Edwards, S. M. & Lee, J. H. (2002). Measuring the intrusiveness of advertisements: Scale development and validation. Journal of Advertising, 31(2), 37-47. Matthaes, R. (2011). Vietnamese people are much more open to online advertising than internet users elsewhere. Vietnam Economic Times. McCoy, S. E. (2008). An experimental study of antecedents and consequences of online ad intrusiveness. Journal of Human-Computer Interaction, 24(7), 672-699. Naveh-Benjamin, M. G. (2003). The effects of divided attention at encoding on item and associative memory. Memory & Cognition, 31(7), 1021–1035. Nielsen. (2014). Báo cáo người dùng Internet Vietnam 2014. Truy cập ngày 10/07/2015, từ Wang, T. O. (2009). Antecedents and consequences of mobile advertising intrusiveness. In The 9th International Conference on Electronic Business. Macau. Ying, L. K. (2009). The effect of ad value, ad placement and ad execution on the perceived intrusiveness of web advertisements. International Journal of Advertising, 28(4), 623-638. Zaichkowsky, J. (1994). The personal involvement inventory: Reduction, revision, and application to advertising. Journal of advertising, 23(4), 59-70.
File đính kèm:
- nghien_cuu_yeu_to_anh_huong_va_he_qua_cua_cam_nhan_bi_lam_ph.pdf