Nghiên cứu thực nghiệm cải tiến đặc tính nhiệt học của tấm pin mặt trời
Đặc tính nhiệt – điện của tấm pin mặt trời (PV solar cells) thương phẩm nói chung có mối
quan hệ tỷ lệ nghịch giữa nhiệt độ làm việc của tấm pin và hiệu suất sinh điện. Do đó để tối đa
hóa quá trình sinh điện cần phải có cơ chế hỗ trợ sao cho nhiệt độ làm việc của tấm được giữ
ở vùng giá trị càng thấp càng tốt. Tấm pin thường có cấu trúc phẳng được lắp đặt với khoảng
trống thoáng ở cả mặt trước và mặt lưng. Tuy nhiên, nhiệt độ làm việc thực tế vẫn khá cao so
với nhiệt độ môi trường và do đó hiệu suất sinh điện thực tế thấp hơn nhiều so với hiệu suất
định mức ghi trong thông số kỹ thuật của tấm pin. Nghiên cứu này nhằm mục đích hỗ trợ quá
trình giữ nhiệt độ làm việc của tấm pin ở vùng gần giá trị nhiệt độ môi trường bằng giải pháp
kết hợp sử dụng vật liệu chuyển pha (PCM) và hệ thống làm mát bằng nước. Kết quả cho thấy,
nhiệt độ làm việc của tấm pin khi được xử lý hỗ trợ bằng phương án kết hợp có giá trị thấp
hơn tấm pin không được hỗ trợ khoảng 7oC – 15oC, qua đó giúp tăng thời gian duy trì hiệu
suất sinh điện đầu ra của tấm pin trong quá trình vận hành, cao hơn hiệu suất của tấm pin
không được hỗ trợ khoảng 3,07%. Mức giảm nhiệt độ và thời gian duy trì khoảng nhiệt độ làm
việc thấp phụ thuộc vào hàm lượng PCM được sử dụng, hình thức trao đổi nhiệt của hệ làm
mát bằng nước và điều kiện môi trường bao gồm cường độ bức xạ tới và nhiệt độ môi trường
xung quanh. Bên cạnh đó, mức độ tiếp xúc trao đổi nhiệt giữa các thành phần kết cấu của hệ
là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả duy trì nhiệt độ làm việc ở mức thấp của tấm pin.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thực nghiệm cải tiến đặc tính nhiệt học của tấm pin mặt trời
ngoài trời Chế độ thực nghiệm ngoài trời (outdoor) nhằm mục đích so sánh và đánh giá hiệu quả sinh điện thực tế của tấm PV khi làm việc trong điều kiện tự nhiên. Ở chế độ này, các thông số thực nghiệm bao gồm cường độ bức xạ thực tế đến bề mặt tấm PV giao động trong khoảng 750W/m2 đến 1150W/m2, nhiệt độ môi trường trung bình khoảng 36oC, tốc độ gió trung bình khoảng 0,2 m/s. Do có sự biến động tự nhiên như bóng mây, phản xạ, tán xạ, gió thổi, nhiệt độ môi trường nên điều kiện làm việc này khó khăn cho kết luận so sánh về tác động của riêng một biến số lên nhiệt độ làm việc của tấm PV giữa các phiên thực nghiệm khác nhau. Tuy nhiên, vì hệ thống làm việc dưới bức xạ mặt trời thực tế nên giá trị nhiệt độ và điện năng đầu ra phản ánh hiệu quả thực tế của giải pháp cải tiến trên hệ thống. Kết quả đo ở chế độ ngoài trời của từng mẫu thí nghiệm được trình bày lần lượt ở các đồ thị trong các Hình 10 đến Hình 13. Để so sánh hiệu suất sinh điện trong điều kiện vận hành thực tế của các tấm pin, tổng lượng bức xạ tới trên diện tích bề mặt tấm pin và tổng lượng điện năng sinh ra của tấm pin được tính theo Bảng 2 và qua đó suy ra giá trị hiệu suất trung bình của các mẫu pin. Mẫu pin được giữ ổn định nhiệt bằng PCM + Nước cho kết quả hiệu suất cao nhất. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả thí nghiệm trong phòng thí nghiệm. Mặc dù như đã giải thích ở trên, giá trị nhiệt độ làm việc của tấm pin và do đó hiệu suất sinh điện của các tấm pin có chịu ảnh hưởng của gió, nhiệt độ môi trường và sự biến động của bức xạ mặt trời giữa các ngày thực nghiệm, nhưng tác giả đã sàng lọc trong những dữ liệu thí nghiệm có điều kiện ngoài trời gần giống nhau (nhiệt độ môi trường giao động quanh khoảng 35 – 36oC, tốc độ gió thấp hơn 0,1 m/s (những ngày trời nắng oi và lặng gió), bức xạ tương đối ổn định ở mức gần 900-1000W/m2, bỏ qua một số thời điểm bị mây che khuất. Hình 10. Nhiệt độ của tấm PV nguyên bản -10.00 10.00 30.00 50.00 70.00 90.00 N h iệ t đ ộ ( o C ) Thời gian (hh:mm) T mặt trên Pin T môi trường T mặt trên Pin + Nước T mặt trên Pin + PCM T mặt trên Pin + PCM + Nước 0 200 400 600 800 1000 1200 0 10 20 30 40 50 60 70 1 2 h 0 2 1 2 h 0 8 1 2 h 1 4 1 2 h 2 0 1 2 h 2 6 1 2 h 3 2 1 2 h 3 8 1 2 h 4 4 1 2 h 5 0 1 2 h 5 6 1 3 h 0 2 1 3 h 0 8 1 3 h 1 4 1 3 h 2 0 1 3 h 2 6 1 3 h 3 2 1 3 h 3 8 1 3 h 4 4 1 3 h 5 0 1 3 h 5 6 C ư ờ n g đ ộ b ứ c x ạ (W /m 2 ) N h iệ t đ ộ ( o C ) Thời gian (hh:mm) T mt T dưới Pin T trên Pin Bức xạ Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 58 (06/2020) Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh 51 Xét trong khoảng thời gian 2 giờ đầu tiên (là khoảng thời gian mà PAL-33 từ trạng thái rắn chuyển pha hoàn toàn sang lỏng và sau đó hệ lỏng tiếp tục gia tăng nhiệt độ), nhờ giải pháp hỗ trợ ổn định nhiệt bằng PCM kết hợp với nước, hiệu suất sinh điện đạt mức 11.21%, cao hơn khoảng 3,07% so với hiệu suất có thể đạt được của tấm PV nguyên bản. Rõ ràng, khoảng chênh lệch này sẽ tăng lên nếu lượng PCM sử dụng đủ nhiều trong toàn bộ thời gian làm việc trong ngày của tấm PV. Hình 14 thể hiện biểu đồ so sánh tương quan giữa các giá trị hiệu suất trung bình đạt được ở các mẫu pin. Hình 11. Nhiệt độ của tấm PV + nước Hình 12. Nhiệt độ của tấm PV + PCM Hình 13. Nhiệt độ của tấm PV+PCM+nước Hình 14. Biểu đồ so sánh hiệu suất sinh điện trung bình của 04 mẫu pin Bảng 2. Kết quả thực nghiệm hiệu suất sinh điện của pin ở các mẫu khác nhau Mẫu Hiệu suất Pin 8.14% Pin + Nước 9.12% Pin + PCM 11.02% Pin + PCM + Nước 11.21% Bảng 3 thống kê giá trị hiệu suất thực nghiệm ứng với các mức nhiệt độ làm việc khác nhau trong điều kiện thí nghiệm ngoài trời của mẫu 4. Dựa trên bảng dữ liệu này, tác giả đã thực hiện phương pháp hồi quy bậc 2 theo các phương trình (9) và (10), và thu được hàm hồi quy thể hiện quan hệ giữa nhiệt độ tấm pin và hiệu suất sinh điện có dạng: (T) = 18,21 – 0,15 T (11) Trong trường hợp chung khi lớp PCM chỉ có thể tiếp xúc với mặt dưới (theo 0 200 400 600 800 1000 1200 0.00 10.00 20.00 30.00 40.00 50.00 60.00 70.00 1 0 h 2 0 1 0 h 2 7 1 0 h 3 4 1 0 h 4 1 1 0 h 4 8 1 0 h 5 5 1 1 h 0 2 1 1 h 0 9 1 1 h 1 6 1 1 h 2 3 1 1 h 3 0 1 1 h 3 7 1 1 h 4 4 1 1 h 5 1 1 1 h 5 8 1 2 h 0 5 1 2 h 1 2 1 2 h 1 9 C ư ờ n g đ ộ b ứ c x ạ (W /m 2 ) N h iệ t đ ộ ( o C ) Thời gian (hh:mm) T mt T trên Pin T dưới Pin Bức xạ 0 200 400 600 800 1000 1200 0.00 10.00 20.00 30.00 40.00 50.00 60.00 70.00 80.00 1 1 h 3 5 1 1 h 4 4 1 1 h 5 3 1 2 h 0 2 1 2 h 1 1 1 2 h 2 0 1 2 h 2 9 1 2 h 3 8 1 2 h 4 7 1 2 h 5 6 1 3 h 0 5 1 3 h 1 4 1 3 h 2 3 1 3 h 3 2 1 3 h 4 1 1 3 h 5 0 1 3 h 5 9 1 4 h 0 8 C ư ờ n g đ ộ b ứ c x ạ (W /m 2 ) N h iệ t đ ộ ( o C ) Thời gian (hh:mm) T mt T dưới Pin+PCM T trên Pin + PCM Bức xạ 0 200 400 600 800 1000 1200 0.00 10.00 20.00 30.00 40.00 50.00 60.00 70.00 1 0 h 0 2 1 0 h 1 3 1 0 h 2 4 1 0 h 3 5 1 0 h 4 6 1 0 h 5 7 1 1 h 0 8 1 1 h 1 9 1 1 h 3 0 1 1 h 4 1 1 1 h 5 2 1 2 h 0 3 1 2 h 1 4 1 2 h 2 5 1 2 h 3 6 1 2 h 4 7 1 2 h 5 8 1 3 h 0 9 1 3 h 2 0 C ư ờ n g đ ộ b ứ c x ạ (W /m 2 ) N h iệ t đ ộ ( o C ) Thời gian (hh:mm) T mt T dưới Pin + PCM + nước T trên Pin + PCM + nước Bức xạ 0.00% 2.00% 4.00% 6.00% 8.00% 10.00% 12.00% Pin Pin+Nước Pin+PCM Pin+PCM+Nước H iệ u s u ất 52 Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 58 (06/2020) Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh phương trọng trường) của đối tượng cần làm mát (cụ thể như trong thiết kế với tấm PV trong nghiên cứu này) thì cần phải có giải pháp nâng ép lớp PCM này tiếp xúc chặt lên bề mặt của đối tượng. Một sáng kiến của nghiên cứu là tận dụng khối lượng của PCM riêng nhỏ hơn nước nên sử dụng lớp nước bên dưới để luôn đẩy lớp PCM (nhờ lực nổi) lên tiếp xúc với mặt đáy của đối tượng cần ổn định nhiệt. Đây là một giải pháp đem lại lợi ích kép, nhất là đối với hệ thống làm mát bằng PCM do lớp nước bên dưới đồng thời giúp tản nhiệt một phần cho lớp PCM nóng chảy khi làm việc. Khi tấm PV đặt ở phương nằm ngang thì lực nổi sẽ phân bố đều trên toàn bộ tiết diện tấm, do vậy lớp PCM sẽ luôn tiếp xúc tốt với bề mặt cần được làm mát. Và do đó, không cần có vỏ bọc cho lớp PCM mà PCM và nước có thể được chứa chung trong cùng một hộp chứa kín như đã thiết kế trong đề tài nhưng sẽ phân thành 2 lớp riêng biệt (do tính không hòa tan trong nước của PAL-33 và khối lượng riêng khác nhau). Tuy nhiên, khi tấm PV đặt ở phương nghiêng (15o ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh) thì lực nổi sẽ có xu hướng đẩy lớp PCM lên phía mép cao của tấm PV trong khi nước sẽ nằm phía mép thấp của tấm PV. Do cơ chế đối lưu tự nhiên, nước khi hấp thụ nhiệt sẽ nóng và đối lưu lên trên sẽ trao đổi nhiệt với khối PCM, sau khi giải nhiệt sẽ tuần hoàn xuống dưới để tiếp tục chu trình làm mát tấm PV. Nếu muốn đảm bảo tác động của PCM đồng đều hơn lên bề mặt tấm PV thì ta nên có một lớp vỏ PCM dạng tấm để lực đẩy của nước sẽ giúp áp tấm PCM lên tiếp xúc đều trên bề mặt lưng của tấm PV. Bảng 3. Hiệu suất sinh điện của mẫu 4 theo các nhiệt độ làm việc khác nhau Nhiệt độ bề mặt tấm PV ( o C) Hiệu suất (%) 38 13.07 43 11.57 48 10.72 53 10.25 58 9.44 63 8.93 68 8.31 Tùy theo các thông số kỹ thuật của loại PCM được dùng (ẩn nhiệt, nhiệt độ chuyển pha, khối lượng riêng) và mức cường độ bức xạ mặt trời ở nơi sử dụng mô hình cải tiến này, lượng PCM cần được tính toán và thiết kế với lượng đủ lớn để đủ duy trì quá trình chuyển pha trong suốt thời gian tấm PV bị làm nóng lên do nhận bức xạ từ mặt trời trong ngày. Nếu lượng PCM chưa đủ thì sau khi bị chuyển hóa hết sang dạng lỏng, chính lớp PCM sẽ làm chậm khả năng tản nhiệt ở phía bề mặt lưng tấm PV, kéo theo nhiệt độ của tấm khi đó thậm chí sẽ cao hơn mức nhiệt độ ở cùng điều kiện làm việc của tấm PV nguyên bản. Đây là một chú ý quan trọng trong thiết kế nếu không sẽ có thể làm tổng hiệu suất sinh điện của mô hình tấm PV cải tiến giảm đi thay vì tăng thêm so với tấm PV nguyên bản. 5. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã đề ra một cấu trúc cải tiến đặc tính nhiệt học của tấm pin mặt trời thông qua việc kết hợp vật liệu chuyển pha và nước để ổn định nhiệt độ làm việc cho tấm pin. Bằng việc sử dụng vật liệu chuyển pha PAL-33, mức giảm nhiệt độ của tấm pin có thể đạt khoảng 7oC – 15oC và thời gian làm việc tại giá trị nhiệt độ thấp này được duy trì dài hay ngắn tùy thuộc vào hàm lượng và giá trị ẩn nhiệt của loại PCM được sử dụng trong thiết kế. Nhờ nhiệt độ làm việc được duy trì ở mức thấp hơn so với trường hợp của tấm pin thông thường, hiệu suất sinh điện tổng đã được tăng từ khoảng 8.14% (tấm PV nguyên bản) lên khoảng 11.21% (tấm PV+PCM+nước). Đây là một kết quả tích cực cho thấy giải pháp thiết kế của nghiên cứu này là phù hợp và có thể ứng dụng để đem lại hiệu quả trong việc khai thác nguồn năng lượng mặt trời. LỜI CẢM ƠN Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh, cơ quan chủ trì của đề tài nghiên cứu B2019-SPK-10. Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 58 (06/2020) Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Swapnil Dubey, Jatin Narotam Sarvaiya, Bharath Seshadri, “Temperature Dependent Photovoltaic (PV) Efficiency and Its Effect on PV Production in the World – A Review”, Energy Procedia, Volume 33, 2013, pp. 311–321. [2] Miguel Fisac, Francesc X. Villasevil1, Antonio M. López, “High-efficiency photovoltaic technology including thermoelectric generation”, Journal of Power Sources, Volume 252, 2014, pp. 264–269. [3] Hassan Fathabadi, “Increasing energy efficiency of PV-converter-battery section of standalone building integrated photovoltaic systems”, Energy and Buildings, Volume 101, 2015, pp. 1–11. [4] M. Abdolzadeh, M. Ameri, “Improving the effectiveness of a photovoltaic water pumping system by spraying water over the front of photovoltaic cells”, Renewable Energy, Volume 34, 2009, pp. 91–96. [5] Linus Idoko, Olimpo Anaya-Lara, Alasdair McDonald, “Enhancing PV modules efficiency and power output using multi-concept cooling technique”, Energy Reports,Volume 4,2018, pp.357–369. [6] Elias Roumpakias, Olympia Zogou, Anastassios Stamatelos, “Correlation of actual efficiency of photovoltaic panels with air mass”, Renewable Energy, Volume 74, 2015, pp. 70–77. [7] Mawufemo,Modjinou, JiJie, Weiqi Yuan, Fan Zhou, Sarah Holliday, Adeel Waqas, Xudong Zhao, “Performance comparison of encapsulated PCM PV/T, microchannel heat pipe PV/T and conventional PV/T systems”, Energy, Available online 19 October 2018. [8] Ali Najah Al-Shamani, Mohammad H. Yazdi, M.A. Alghoul, Azher M. Abed, M.H. Ruslan, Sohif Mat, K.Sopian, “Nanofluids for improved efficiency in cooling solar collectors –A review”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, Volume 38, 2014, pp. 348–367. [9] Anant Shukla, D. Buddhi, R.L. Sawhney, “Solar water heaters with phase change material thermal energy storage medium: A review”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, Volume 13, 2009, pp. 2119-2125. [10] Atul Sharma, C.R. Chen, Nguyen Vu Lan, “Solar-energy drying systems: A review”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, Volume 13, 2009, pp. 1185-1210. [11] Huann-Ming Chou, Chang-Ren Chen, Vu-Lan Nguyen, “A new design of metal-sheet cool roof using PCM”, Energy and Buildings, Volume 57, 2013, pp. 42-50. [12] S.A.Nada, D.H.El-Nagar, “Possibility of using PCMs in temperature control and performance enhancements of free stand and building integrated PV modules”, Renewable Energy , Volume 127, 2018, pp. 630-641. [13] M.C. Browne, B. Norton, S.J. McCormack, “Phase change materials for photovoltaic thermal management”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, Volume 47, 2015, pp. 762-782. [14] Christopher J. Smith, Piers M. Forster, Rolf Crook, “Global analyis of photovoltaic energy output enhanced by phase change material cooling”, Applied Energy, Volume 126, 2014, pp.21-28. [15] Maria C. Browne, Brian Norton, Sarah J.Mccormack, “Heat retention of a photovoltaic/thermal collector with PCM”, Solar Energy, Volume 133, 2016, pp. 533-548. [16] A. Hasan, S.J. McCormack, M.J. Huang, J. Sarwar, B Norton, “Increased photovoltaic performance through temperature regulation by phase change materials: Material comparison in different climates”, Solar Energy, Volume 115, 2015, pp. 264-276. [17] C.J. Ho, Wei-Len Chou, Chi-Ming Lai, “Thermal and electrical performance of a water-surface floating PV integrated with a water-saturated MEPCM layer”, Energy Conversion and Management, Volume 89, 2015, pp. 862-872. 54 Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 58 (06/2020) Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh [18] A Hasan, S.J. McCormack, M.J. Huang, B. Norton, “Evaluation of phase change materials for thermal regulation enhancement of building integrated photovoltaics”, Solar Energy, Volume 84, 2010, pp. 1601-1612. [19] Ankita Gaur, Christophe Ménézo, Stéphanie Giroux-julien, “Numerical studies on thermal and electrical performance of a fully wetted absorber PVT collector with PCM as a storage medium”, Renewable Energy, Volume 109, 2017, pp. 168-187. [20] Peter Atkin, Mohammed M. Farid, “ Improving the efficiency of photovoltaic cell using PCM infused graphite and aluminium fins”, Solar Energy, Volume 114, 2015, pp. 217-228. [21] M.J. Huang, P.C. Eames, B. Norton, N.J. Hewitt, “Natural convection in an internally finned phase change material heat sink for the thermal management of photovoltaics”, Solar Energy Materials & Solar Cells, Volume 95, 2011, pp. 1598-1603. [22] Tao Ma, Hongxingyang, Yinping Zhang, Lin Lu, Xin Wang, “Using phase change materials in photovoltaic systems for thermal regulation and electrical efficiency improvement: A review”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, Volume 43, 2015, pp. 1273-1284. [23] Sachin V. Chavan, D. Devaprakasam, Improving the Performance of Solar Photovoltaic Thermal System using Phase Change Materials – Review, Int. J. Adv. Sci. Eng. Vol. 4 No3 687-697 (2018) 687, ISSN 2349 5359. Tác giả chịu trách nhiệm bài viết: TS. Nguyễn Vũ Lân Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh Email: lannv@hcmute.edu.vn
File đính kèm:
- nghien_cuu_thuc_nghiem_cai_tien_dac_tinh_nhiet_hoc_cua_tam_p.pdf