Nghiên cứu sức chứa đối với phố cổ Hội An trong việc hoạch định chính sách phát triển du lịch bền vững
Sức chứa du lịch là yếu tố quan trọng trong chính sách phát triển du lịch bền vững của một điểm
đến bất kỳ. Kết quả từ sức chứa dự báo cụ thể những tác động du lịch đối với môi trường tự nhiên
và dự báo về vòng đời của điểm đến. Nghiên cứu đề cập kết quả tính toán sức chứa du lịch đối
với phố cổ Hội An – điểm đến luôn trong tình trạng quá tải những năm gần đây. Dựa vào phương
pháp tính toán sức chứa vật chất (Physical Carrying Capacity [PCC]) và sức chứa thực tế (Effective
Real Carrying Capacity [ERCC]), bài viết cung cấp kết quả số lượng khách du lịch tối đa cho phép
tham quan phố cổ Hội An sau khi loại bỏ các yếu tố tác động tiêu cực để đảm bảo phát triển bền
vững trong một năm tối đa là 3,53 triệu du khách. So với số lượng khách du lịch đến Hội An năm
2019 là 5,35 triệu lượt, điều này cảnh báo tình trạng quá tải lên đến 1,52 lần. Từ đó, tác giả đưa ra
gợi ý về chính sách quản lý tập trung vào: (1) tạo thời gian nghỉ cho điểm đến; (2) tái phân bố thị
trường trọng điểm đối với phố cổ Hội An. Hai giải pháp này sẽ góp phần hỗ trợ cơ quan quản lý
trong chính sách giảm tải áp lực về sức chứa du lịch của phố cổ Hội An và tuyến di sản tại miền
Trung - Việt Nam theo mục tiêu phát triển bền vững
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu sức chứa đối với phố cổ Hội An trong việc hoạch định chính sách phát triển du lịch bền vững
80/2.160 = 0,917 Hệ số tiêu cực khác: Vấn đề về cơ sở vật chất kỹ thuật, sản phẩm và dịch vụ du lịch thường được tính dựa vào phương pháp điều tra xã hội học. Vì vậy, tác giả tham khảo và trích dẫn kết quả từ những nghiên cứu tương đồng. TheoNguyễnThịMinh Nghĩa và cộng sự (2017), kết quả nghiên cứu về khả năng thu hút khách du lịch đến phố cổ Hội An, đánh giá điều tra xã hội học từ khách du lịch về hệ số hạn chế tại đây là loại hình trải nghiệm vận động – thể thao, giá mua sắm, hoạt động về đêm, dịch vụ chăm sóc sức khỏe lần lượt là 0,854, 0,802, 0,751 và 0,639 16. Như vậy, ta có - Cf3 (trải nghiệm vận động – thể thao) = 0,854 - Cf4 (giá mua sắm) = 0,802 - Cf5 (giải trí về đêm) = 0,751 - Cf6 (dịch vụ chăm sóc sức khỏe) = 0,639 RCC Sức chứa thực tế khu, điểm đến du lịch (khách). Áp dụng công thức tính sức chứa thực tế tại phố cổ Hội An ta có: RCC = PCC.(Cf1.Cf2.Cf3Cfn) RCC = 38.400.(0,854.0,836.0,917.0,802.0,751.0,639) = 9.675 khách. Như vậy, sức chứa thực sau khi đã hiệu chỉnh sức chứa vật chất là 9.675 khách/ngày và 3.531.509 khách/năm. Tính toán sức chứa thực tế phố cổ Hội An Từ kết quả sức chứa vật chất, tác giả sử dụng là cơ sở để tính toán sức chứa thực tế phố cổHội An (Effective Real CarryingCappacity [ERCC]). Đây là tính toán về số lượng khách du lịch tối đa tham quan điểm đến sau khi đã áp dụng các hệ số hiệu chỉnh sức chứa vật chất. Công thức tính toán dựa theo nghiên cứu của Sofiyan và cộng sự (2019) là RCC = PCC.(Cf1 . Cf2 . Cf3 Cfn) 15 (xem Bảng 2). THẢO LUẬNGIẢI PHÁP PHỤC HỒI SỨC CHỨA PHỐ CỔHỘI AN Với kết quả tính toán số lượng khách du lịch tối đa cho phép tham quan phố cổ Hội An sau khi đã áp dụng các hệ số hiệu chỉnh sức chứa vật chất trong một năm là 3.531.509 khách (khoảng 3,53 triệu). So sánh với thống kê số lượng khách du lịch đếnHộiAnnăm2019 là 5,35 triệu lượt 17, ta thấy tình trạng quá tải khách du lịch lên đến 1,52 lần. Tình trạng quá tải lượng khách du lịch đến phố cổ Hội An kéo dài từ năm 2017 đến nay mà cơ quan truyền thông đã đưa tin luôn vượt sức chịu tải của điểm đến trong nhiều năm liền sẽ tạo nên những hệ lụy khôn lường, đặc biệt cản trở chính sách phát triển du lịch bền vững của điểm đến. Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm soát tình trạng quá tải lượng khách du lịch tại phố cổ Hội An. 987 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):983-990 Tạo thời gian nghỉ cho điểm đến Với vị trí địa lý và điều kiện thiên nhiên đặc biệt, quá trình hình thành và phát triển phố cổ Hội An gắn liền với hạ lưu sông Thu Bồn và khí hậu nhiệt đới. Điều này tạo nên ảnh hưởng trực tiếp là tình trạng mưa bão, lũ lụt kéo dài trong 2 tháng gần cuối năm và khô hạn 2 tháng mùa hè. Cùng với tình trạng khách du lịch đến đây luôn trong tình trạng quá tải thời gian dài sẽ ảnh hưởng nguy cấp đến môi trường tự nhiên (ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm tiếng ồn, áp lực rác thải). Hoạt động du lịch tại phố cổ Hội An phát triển quá nhanh, trong khi các công trình xử lý nước thải đô thị chưa tương xứng với số lượng khổng lồ khách du lịch đổ về. Vì thế, cơ quan quản lý cần có biện pháp tạo thời gian nghỉ cố định mỗi năm tại phố cổ Hội An để ngăn chặn những tác động xấu đếnmôi trường sinh thái và tạo điều kiện phục hồi trở về trạng thái ban đầu bằng cách tận dụng thời gian đóng cửa điểm đến làmùa thấp điểmhoặc saumùamưa lũ. Giải pháp này đã được nhiều quốc gia tại châu Đông Nam Á áp dụng nhưThái Lan đã bỏ qua nguồn thu khổng lồ từ du lịch, đóng cửa vịnh Maya (Krabi) trong 2 năm để san hô và các loài động thực vật hoang dã có cơ hội phục hồi sau khi chứng kiến sự quá tải lượng khách du lịch. Hoặc tại Phillipines, chính quyền và cơ quan quản lý đã thông qua chính sách đóng cửa đảo Bora- cay 6 tháng trong năm để cải tạo môi trường, dọn dẹp rác thải khi số lượng khách du lịch quá tải từ hiệu ứng truyền thông quốc tế và quy định sức chứa tối đa dưới 19.000 khách trong thời điểm hoạt động du lịch. Tái phân bố thị trường trọng điểm Thêm một vấn đề, phố cổ Hội An mặc dù quá tải sức chứa nhưng lại suy giảm đáng kể lượng khách từ những thị trường truyền thống như châu Âu và Bắc Mỹ. Sự gia tăng nhanh chóng thị trường Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) nhưng khả năng quay lại không cao do mỗi thị trường có cách thức, nhu cầu du lịch khác biệt mà Hội An lại hạn chế chương trình để có thể thu hút du khách như du lịch sinh thái, du lịch biển, nghỉ dưỡng. Vì vậy, cơ quan quản lý cần thống kê những thị trường du lịch trọng điểm và phối hợp cùng công ty lữ hành để tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi và quyết định của khách du lịch khi lựa chọn Hội An để xây dựng sản phẩm, dịch vụ nhằm phân bố luồng khách trải đều quanh năm, không bị dồn nén cục bộ trong cùng một thời điểm. Ví dụ, khách du lịch Trung Quốc chủ yếu đi du lịch trong Tuần Lễ Vàng dịp quốc khánh hoặc dịp tếtNguyênĐán và có xu hướng ưa thíchmua sắm, trải nghiệm ẩm thực địa phương18. Trong khi đó, khách du lịch Hàn Quốc lại ưa thích ngắm cảnh, nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe trong mùa thu19 và khách Nhật Bản lại ưa thích học tập, tham quan làng nghề truyền thống trong mùa hè20. Sự cần thiết phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý điểm đến, công ty lữ hành và hãng hàng không để có thể quảng bá truyền thông đến thế giới biết rõ Hội An đang có những sản phẩm, dịch vụ gì và có thực sự phù hợp với khách du lịch thị trường đó hay không. Có như vậy, ta sẽ hạn chế được tình trạng tour 0 đồng và thị trường khách giá rẻ ào ạt, đồng thời kiểm soát được số lượng khách đến ổn định hằng năm. KẾT LUẬN Sức chứa du lịch là một yếu tố quan trọng trong chính sách phát triển du lịch bền vững của một điểm đến bất kỳ. Kết quả từ sức chứa dự báo cụ thể về tác động du lịch đối với môi trường tự nhiên và vòng đời của điểm đến. Dựa vào kết quả tính toán sức chứa du lịch thực tế cho thấy, trong năm2019 phố cổHộiAn xảy ra tình trạng quá tải gấp 1,52 lần giới hạn cho phép. Tạo thời gian nghỉ ngơi cho điểm đến và tái phân bố thị trường khách du lịch trọng điểm có thể là một trong nhiều biện pháp nhằm kiểm soát tình trạng quá tải tại phố cổ Hội An trong tương lai. Bên cạnh đó, Hội An cũng cần tiếp tục đầu tư cải thiện, trùng tu di tích, dịch vụ ẩm thực và lưu trú nhằm đáp ứng tốt hơn những nhu cầu của khách du lịch. Như vậy, sẽ tạo nên sự hài lòng, tăng mức chi tiêu và khả năng quay trở lại của du khách. Nghiên cứu về sức chứa du lịch đối với phố cổ Hội An là một vấn đề quan trọng và rất có ý nghĩa đối với cơ quan quản lý điểm đến. Bên cạnh đó, kết quả từ nghiên cứu còn giúp xác định rõ sức chứa có ảnh hưởng đến doanh thu du lịch và chính sách phát triển bền vững điểm đến. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu chỉ tập trung tính toán sức chứa về vật lý trong khi đó sức chứa du lịch phố cổ Hội An có thể chịu tác động từ nhiều chiều khác nhau (tâm lý, sinh học, xã hội,). Điều này cũng gợi mở cho những nghiên cứu khác trong tương lai góp phần hoàn thiện đánh giá sức chứa điểm đến Hội An. DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT PCC: Physical Carrying Capacity ERCC: Effective Real Carrying Capacity TALC: Tourism Area Life Cycle XUNGĐỘT LỢI ÍCH Tác giả không có bất kỳ xung đột lợi ích nào trong công bố bản thảo. 988 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):983-990 ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ Để thực hiện bài viết, tác giả đã: - Tìm chủ đề và thu thập thông tin (tháng 04/2020). - Viết phần tổng quan, nội dung và kết luận (tiếng Việt) (tháng 08 – 11/2020). - Viết phần tóm tắt và từ khóa (tiếng Việt và tiếng Anh) (tháng 12/2020). - Biên tập, chỉnh sửa nội dung và trình bày theo hướng dẫn từ tạp chí (tháng 12/2020). BÀI VIẾT CÓ ĐÓNGGÓP VỀMẶT KHOAHỌC Bài viết ghi nhận kết quả tính toán sức chứa du lịch trường hợp phố cổ Hội An – điểm đến quá tải trong những năm gần đây. Dựa vào phương pháp tính toán sức chứa vật chất (Physical Carrying Capacity [PCC]) và sức chứa thực tế (Effective Real CarryingCappacity [ERCC]), tác giả cung cấp kết quả về số lượng khách du lịch tối đa cho phép tham quan phố cổ Hội An sau khi loại bỏ các yếu tố tác động tiêu cực để đảm bảo phát triển bền vững trong một năm tối đa 3,53 triệu du khách. So với số lượng khách du lịch đến Hội An năm 2019 là 5,35 triệu lượt, điều này cảnh báo tình trạng quá tải lên đến 1,52 lần. Tạo thời gian nghỉ ngơi cho điểm đến và tái phân bố thị trường khách du lịch trọng điểm là một trong nhiều biện pháp nhằm kiểm soát tình trạng quá tải tại phố cổ Hội An trong tương lai. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Kikuchi S. Sự hình thành và phát triển khu phố cổ Hội An (Qua tư liệu văn bia, thư tịch và khảo cổ học). Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. 2001;319(6):47–54. 2. Thu H. Hội An ”quá tải” du khách nhưng lại sụt giảm khách Châu Âu. [Online]. [trích dẫn năm 2020 tháng 08 16]. 2018;Available from: An-qua-tai-du-khach-nhung-lai-sut-giam-khach-Chau-Au- 518062/. 3. Tuất LT. Du lịch Hội An quá tải: do quy hoạch, sắp xếp dịch vụ. [Online]. [trích dẫn năm 2021 tháng 02 15]. 2019;Available from: https://www.thesaigontimes.vn/293057/du-lich-hoi-an- qua-tai-do-quy-hoach-sap-xep-dich-vu-.html. 4. Hà TTT, Tuấn TH, Đoàn Khánh Hưng. Ảnh hưởng của nhân tố đẩy và kéo đến lòng trung thành của du khách đối với điểm đếnHội An. HueUniversity Journal of Science: Economics and Development. 2019;128(5A):147–167. Available from: https: //doi.org/10.26459/hueuni-jed.v128i5A.5044. 5. Butler R (Eds.). The Tourism Area Life Cycle, Vol.1. Toronto: Channel View Publications. 2006;p. 09–11. Available from: https://doi.org/10.21832/9781845410278. 6. Butler R (Eds.). The Tourism Area Life Cycle, Vol.1. Toronto: Channel View Publications. 2006;p. 05. Available from: https: //doi.org/10.21832/9781845410278. 7. Agarwal S. The resort cycle and seaside tourism: An assess- ment of its applicability and validity. Tourism Management. 1997;18(2):65–73. Available from: https://doi.org/10.1016/ S0261-5177(96)00102-1. 8. O’Reilly AM. Tourism Carrying Capacity: Concept and Issues. Tourism Management. 1986;7(4):254–258. Available from: https://doi.org/10.1016/0261-5177(86)90035-X. 9. HưngQ. Sức chứadu lịch - yếu tốquan trọngphát triểndu lịch. [Online]. [trích dẫn năm 2020 tháng 10 02]. 2015;Available from: 10. AnNTD, KiềuNTO. Giáo trình Tổngquandu lịch. ĐàNẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng. 2014;. 11. Williams PW. Evaluating environmental impact and physical carrying capacity in tourism. New York, USA: John Wiley & Sons Inc. 1987;p. 385–397. 12. Hieu VM. Researching on the Capacity of Hoi AnAncient Town for Sustainable Tourism Development Policy. In: Proceedings of the 2nd Annual International Conference on Sustainable Development in the Central Vietnam (AISSC); 2020 Sep 17; Da Nang, Viet Nam. Da Nang: Institute of Social Sciences of the Central Region (ISSCR). 2020;p. 651–659. 13. Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di Sản Văn hóa Hội An. [Online]. Sơ đồ khoanh vùng bảo vệ và các quy định bảo tồn khu phố cổ. [trích dẫn năm 2020 tháng 10 10]. 2012;Available from: https://hoianheritage.net/vi/news/Tu-van-bao-ton-di-san/ So-do-khoanh-vung-bao-ve-va-cac-quy-dinh-bao-ton-khu- pho-co-94.html. 14. Ravinder J & Kaushik SP. Assessment of physical carrying ca- pacity for managing sustainability at religious tourist destina- tions. International Journal of Religious Tourism and Pilgrim- age. 2017;5(1):29–38. 15. Sofiyan A, Winarno GD & Hidayat W. Analysis of ecotourism’s physical, real and effective carrying capacity in Pulau Pisang, Pesisir Barat Regency. Jurnal Sylva Lestari. 2019;7(2):225–234. Available from: https://doi.org/10.23960/jsl27225-234. 16. Nghĩa NTM, Nhi LVTT, Tuấn TH. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách du lịch nội địa của điểm đến Hội An. Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển. 2017;126(5D):29–39. Available from: https://doi.org/10.26459/ hueuni-jed.v126i5D.4490. 17. Báo Điện tử Quảng Nam. Năm 2019 Hội An đón 5,35 triệu lượt khách du lịch. [Online]. [trích dẫn năm 2020 tháng 10 14]. 2019;Available from: 2019-hoi-an-don-535-trieu-luot-khach-du-lich-82873.html. 18. World Tourism Organization & China Tourism Academy. Guidelines for Success in the ChineseOutbound TourismMar- ket. Spain: World Tourism Organization. 2019;. 19. World Tourism Organization. Outbound Tourism of the Re- public of Korea -Market Profile (English version). Spain: World Tourism Organization. 2000;. 20. World Tourism Organization. Outbound Tourism of Japan - Market Profile (English version). Spain: World Tourism Orga- nization. 2000;. 989 Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(2):983-990 Open Access Full Text Article Commentary No. 60, Street 3, Tan Kieng Ward, District 7, Ho Chi Minh City, Vietnam Correspondence VoMinh Hieu, No. 60, Street 3, Tan Kieng Ward, District 7, Ho Chi Minh City, Vietnam Email: hieuvo3108@gmail.com History Received: 16/01/2021 Accepted: 07/5/2021 Published: 10/5/2021 DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.624 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Researching the capacity of Hoi An ancient town in the policy-making for sustainable tourism development VoMinh Hieu* Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT Tourism carrying capacity is an important factor of sustainable tourism development policy for any destinations. Results from the capacity specifically forecast tourism impact on the destination's nat- ural environment and also forecast the destination's life cycle. The focus of the article is to record the results from calculating the tourism capacity of Hoi An ancient town – a popular destination that has been overloaded recently. Based on Physical Carrying Capacity (PCC) and Effective Real Carrying Capacity (ERCC) and after eliminating the negative impact factor to ensure sustainable development, the maximum number of tourists permitted to visit Hoi An ancient town is 3.53 mil- lion per year. However, the number of tourists to Hoi An in 2019 was 5.35 million, surpassing the addressed limit of carrying capacity by 1.52 times. The author suggests a management policy with focus on (1) creating vacation time for the destination; (2) and redistributing key tourist markets for Hoi An ancient town. From the results of these two measures, the author gives some sugges- tions on management policies to restructure the tourist market in order to reduce the pressure on the carrying capacity of Hoi An ancient town and the heritage route in the Central of Viet Nam according to the goal of sustainable development. Key words: Tourism capacity, Hoi An ancient town, policy making, sustainable development Cite this article : Hieu V M. Researching the capacity of Hoi An ancient town in the policy-making for sustainable tourism development. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(2):983-990. 990
File đính kèm:
- nghien_cuu_suc_chua_doi_voi_pho_co_hoi_an_trong_viec_hoach_d.pdf