Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp: Dữ liệu tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco)
TÓM TẮT
Kế toán trách nhiệm là một nội dung quan trọng của kế toán quản trị, đây là
môt công cụ quản lý kinh tế hiệu quả của các Doanh nghiệp. Bài báo nghiên cứu
về các nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức kế toán trách nhiệm trong các doanh
nghiệp. 179 phiếu khảo sát hợp lệ được thu thập. Nghiên cứu chỉ ra nhận thức
của nhà quản trị doanh nghiệp về kế toán trách nhiệm có tác động tích cực đến
việc tổ chức kế toán trách nhiệm. Ngoài ra kết quả cũng chỉ ra sự tác động tiêu
cực của nhân tố chi phí tổ chức kế toán trách nhiệm đến việc tổ chức kế toán
trách nhiệm. Từ đó một số kiến nghị để nâng cao khả năng tổ chức kế toán trách
nhiệm được đề xuất.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp: Dữ liệu tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp: Dữ liệu tại các đơn vị trực thuộc Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco)
ơng quan và hồi quy đa biến Sau quá trình thực hiện kiểm định thang đo nghiên cứu tiến hành tính toán nhân số của nhân tố (giá trị của các nhân tố trích được trong phân tích nhân tố EFA) bằng cách tính trung bình cộng của các biến quan sát thuộc nhân tố tương ứng. Các nhân tố được trích ra trong phân Bảng 2. Phân tích tương quan Correlations CT PC QM NT CP CL TC CT Pearson Correlation 1 Sig. (2-tailed) N 179 PC Pearson Correlation 0,234** 1 Sig. (2-tailed) 0,002 N 179 179 QM Pearson Correlation 0,195** 0,215** 1 Sig. (2-tailed) 0,009 0,004 N 179 179 179 NT Pearson Correlation 0,392** 0,283** 0,249** 1 Sig. (2-tailed) 0,000 0,000 0,001 N 179 179 179 179 CP Pearson Correlation -0,259** -0,062 -0,057 -0,310** 1 Sig. (2-tailed) 0,000 0,407 0,450 0,000 N 179 179 179 179 179 CL Pearson Correlation 0,295** 0,081 0,268** 0,182* -0,157* 1 Sig. (2-tailed) 0,000 0,283 0,000 0,015 0,036 N 179 179 179 179 179 179 TC Pearson Correlation 0,549** 0,446** 0,453** 0,562** -0,379** 0,436** 1 Sig. (2-tailed) 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 N 179 179 179 179 179 179 179 **. Correlation is significant at the 0,01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0,05 level (2-tailed). (Nguồn: Tác giả khảo sát và tổng hợp) XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Số 55.2019 154 KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 tích nhân tố được sử dụng cho phân tích hồi quy đa biến để kiểm định mô hình nghiên cứu và các giả thuyết kèm theo. Các kiểm định giả thuyết thống kê đều áp dụng mức ý nghĩa là 5%. Bảng 2 cho kết quả hệ số tương quan giữa các biến. Hệ số tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình không có cặp nào có giá trị tuyệt đối lớn hơn 0,6. Ở ma trận hệ số tương quan giữa các biến với biến phụ thuộc TC, hệ số thấp nhất là 0,379 giữa biến CP và TC, hệ số cao nhất là 0,562 giữa biến NT và TC. Do đó, khi sử dụng mô hình hồi quy sẽ ít có khả năng gặp hiện tượng đa cộng tuyến. Tuy nhiên kết quả phân tích tương quan pearson cũng chỉ ra rằng giữa một số biến độc lập như CP và PC, CP và QM, CL và PC có sự tương quan với nhau. Do đó, khi phân tích hồi quy cần phải chú ý đến vấn đề đa cộng tuyến. Phân tích hồi quy tương quan Nghiên cứu tiến hành phân tích hồi quy để xác định cụ thể trọng số của từng thành phần tác động đến việc tổ chức KTTN trong các đơn vị trực thuộc SABECO. Kết quả hồi quy thu được như bảng 3. Như vậy, mô hình hồi quy phù hợp với mức ý nghĩa 5% có dạng như sau: TC = 0,303 + 0,188CT + 0,179PC + 0,245QM + 0,261 NT - 0,192CP + 0,215CL Trong nghiên cứu này, việc tổ chức KTTN tại các đơn vị trực thuộc SABECO chịu ảnh hưởng đáng kể của nhân tố nhận thức của nhà quản trị doanh nghiệp về KTTN với hệ số là 0,261; sau đó là nhân tố quy mô doanh nghiệp với hệ số là 0,245; nhân tố chiến lược kinh doanh có hệ số là 0,215; nhân tố mức độ cạnh tranh của môi trường kinh doanh với hệ số 0,188; nhân tố mức độ phân cấp quản lý với hệ số 0,179. Còn nhân tố chi phí tổ chức KTTN có mối quan hệ ngược chiều với việc vận dụng với hệ số là 0,192. Theo kết quả này, các giả thuyết ở mô hình nghiên cứu đều được chấp nhận và phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đây. Bảng 3. Phân tích hổi quy Model Summary Model R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate 1 0,802a 0,643 0,630 0,46953 a. Predictors: (Constant), CL, PC, CP, QM, CT, NT ANOVAb Model Sum of Squares df Mean Square F Sig. 1 Regression 68,221 6 11,370 51,576 0,000a Residual 37,918 172 0,220 Total 106,139 178 a. Predictors: (Constant), CL, PC, CP, QM, CT, NT b. Dependent Variable: VD Coefficientsa Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. Collinearity Statistics B Std. Error Beta Tolerance VIF 1 (Constant) 0,303 0,290 1,045 0,298 CT 0,188 0,040 0,243 4,656 0,000 0,763 1,311 PC 0,179 0,036 0,243 4,995 0,000 0,881 1,135 QM 0,245 0,053 0,226 4,598 0,000 0,863 1,159 NT 0,261 0,056 0,248 4,687 0,000 0,741 1,350 CP -0,192 0,053 -0,178 -3,651 0,000 0,873 1,146 CL 0,215 0,050 0,211 4,286 0,000 0,859 1,164 a. Dependent Variable: VD (Nguồn: Tác giả khảo sát và tổng hợp) P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY No. 55.2019 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 155 4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Như vậy, kết quả cho thấy yếu tố quan trọng nhất tác động đến việc tổ chức KTTN tại các DN chính là nhận thức của nhà quản trị quan nghiệp về KTTN, điều này có nghĩa là nhà quản lý doanh nghiệp đánh giá cao tính hữu ích KTTN, nhận thức được áp lực phải tổ chức KTTN hay có sự am hiểu về KTTN sẽ làm gia tăng việc tổ chức KTTN trong DN. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đó của Trần Ngọc Hùng (2016), Trần Trung Tuấn (2015) các tác giả cũng cho rằng doanh nghiệp có sự hiểu biết càng nhiều về KTTN sẽ gia tăng việc tổ chức KTTN trong DN. Khi người chủ/người điều hành DN đánh giá cao về tính hữu ích các công cụ kỹ thuật KTTN, có hiểu biết về các công cụ kỹ thuật KTTN, có nhu cầu càng cao về việc tổ chức KTTN hay chấp nhận mức chi phía càng cao trong việc đầu tư tổ chức KTTN sẽ làm gia tăng mức độ khả thi của việc tổ chức KTTN. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô doanh nghiệp chính là yếu tố thứ 2 tác động tích cực đến việc tổ chức KTTN, điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đã chỉ ra. Nhóm tác giả Abdel-Kader, M., & Luther, R. (2008) cho rằng DN có quy mô lớn sẽ lựa chọn tổ chức KTQT ở mức độ phức tạp hơn so với DN có quy mô nhỏ; hay kết quả nghiên cứu của Ahmad, K., & Mohamed Zabri, S. (2015) cũng nhấn mạnh: khi quy mô mở rộng, chủ sở hữu/người quản lý công ty có nhu cầu cao hơn về thông tin để xử lý việc ra quyết định phức tạp hơn và cũng để giúp họ hoạch định chiến lược, hay có nhu cầu sử dụng nhiều các kỹ thuật KTQT tinh vi hơn. Kết quả này cũng trùng khớp với kết quả được công bố bởi Trần Ngọc Hùng (2016), Trần Trung Tuấn (2015). Sau nhận thức của nhà quản trị về KTTN, quy mô DN thì yếu tố chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp sẽ làm gia tăng tổ chức KTTN trong các DN. Khi DN có những định hướng, chiến lược tổ chức kinh doanh có liên quan đến việc cung cấp sản phẩm với chất lượng cao; tạo sự sẵn có của sản phẩm, hàng hóa; chiến lược sản xuất theo yêu cầu giao hàng, theo yêu cầu của khách hàng thì sẽ làm gia tăng tổ chức KTTN. Kết quả này cũng đồng nhất với kết quả công bố của các tác giả PA Waweru, N., & Uliana, E. (2008); Tuan Mat, T. (2010); Trần Ngọc Hùng (2016); các tác giả này cũng đã đưa ra nhận định: những thay đổi gia tăng trong chiến lược khác biệt đã gây ra những thay đổi trong thực hành KTQT nói chung và KTTN nói riêng. Kết quả hồi quy cũng đã chỉ ra mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ cạnh tranh của môi trường kinh doanh và tổ chức KTTN. Sự cạnh tranh về các lĩnh vực như: cạnh tranh về nguồn nguyên vật liệu, cạnh tranh về nguồn nhân lực, cạnh tranh về chất lượng sản phẩm/ dịch vụ và cạnh tranh về giá cả; kết quả cho thấy sự cạnh tranh càng cao thì sẽ làm gia tăng việc tổ chức KTTN trong các DN. Ahmad, K. (2012) trong một nghiên cứu về mức độ vận dụng KTQT trong các DN vừa và nhỏ Malaysia đã đưa ra kết quả: khi các DN vừa và nhỏ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt hơn, họ có nhiều khả năng sử dụng kế hoạch chính thức hơn thông qua việc sử dụng các hệ thống ngân sách, kết quả cho thấy cường độ cạnh tranh thị trường tác động tích cực nhất đến tổ chức các công cụ KTQT. Các tác giả khác cũng cho kết quả tương tự: Đoàn Ngọc Phi Anh (2016); Hoque, Z. (2008); Trần Ngọc Hùng (2016). Tuy nhiên kết quả của Williams, J. J., & Seaman, A. E. (2001) hoàn toàn ngược lại với kết quả của nghiên cứu này và nghiên cứu của một số tác giả kể trên. Phân cấp quản lý là một yếu tố đặc thù, là tiền đề và là cơ sở để tổ chức KTTN, kết quả của nghiên cứu hoàn toàn phù hợp với giả thiết đã được đưa ra: phân cấp quản lý có mối quan hệ thuận chiều với việc tổ chức KTTN; thật vậy, DN có phân cấp quản lý về phát triển sản phẩm, dịch vụ; có phân cấp quản lý về tuyển dụng, sa thải nhân viên; có phân cấp quản lý về mua tài sản, định giá bán sản phẩm, phân phối sản phẩm thì sẽ làm gia tăng khả năng tổ chức KTTN trong DN. Kết quả này đồng thuận với kết quả của tác giả Đoàn Ngọc Phi Anh (2016): phân cấp quản lý và kế toán quản trị có mối quan hệ tỉ lệ thuận; nhà quản trị ở các doanh nghiệp có sự phân cấp quản lý thường có nhiều quyền hạn cũng như trách nhiệm hơn trong việc hoạch định và kiểm soát hoạt động, vì vậy họ có khuynh hướng sử dụng các công cụ quản trị mới trong đó có các công cụ kế toán quản trị để có những thông tin hữu ích hơn trong việc lập kế hoạch, kiểm soát, tổ chức, đánh giá và ra quyết định; một số tác giả khác cũng có nhận định tương tự như Chenhall, R. H., & Morris, D. (1986); Abdel-Kader, M., & Luther, R. (2008); Tuan Mat, T. (2010); PA Waweru, N., & Uliana, E. (2008) Trong các nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức KTTN trong DN, nhân tố chi phí tổ chức KTTN là nhân tố có quan hệ ngược chiều. Chi phí đầu tư công nghệ phục vụ việc tổ chức KTTN, chi phí tư vấn từ các tổ chức/ chuyên gia về tổ chức KTTN và chi phí đào tạo nguồn nhân lực để tổ chức KTTN chính là những rào cản áp dụng việc tổ chức KTTN trong DN, những chi phí này càng cao sẽ làm giảm việc vận dụng KTTN. Kết quả này tương thích với kết quả của Trần Ngọc Hùng (2016), tác giả cho rằng nếu yêu cầu chi phí về đầu tư công nghệ phục vụ cho việc tổ chức KTQT trong DN thấp hay yêu cầu chi phí tư vấn từ các tổ chức/chuyên gia về tổ chức KTQT trong DN thấp sẽ làm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT. Như vậy, nghiên cứu đã chỉ ra sự tác động cũng như mức độ tác động của các nhân tổ đến việc tổ chức KTTN tại các DN. Bên cạnh những thành công, nghiên cứu này cũng còn một số hạn chế nhất định. Nghiên cứu này chỉ được thực hiện tại các đơn vị trực thuộc SABECO nên không mang tính đại điện cho tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam. Bên cạnh đó, có một số nhân tố tác động đến tổ chức KTTN mà chưa được đưa vào trong mô hình nghiên cứu, những nhân tố này có thể là tác động của tính đa dạng của sản phẩm, công nghệ, của yếu tố sở hữu trong doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp ngoài ra cũng cần quan tâm đến nhân tố liên quan đến đặc thù quốc gia. Vì thế, những vấn đề này cần được tiếp tục làm rõ trong các nghiên cứu tiếp theo. XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Số 55.2019 156 KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Abdel-Kader, M., & Luther, R., 2008. The impact of firm characteristics on management accounting practices: A UK-based empirical analysis. The British Accounting Review, 40(1), 2-27. [2]. Ahmad, K., 2012. The use of management accounting practices in Malaysian SMEs. [3].Anh, Đ. N. P., 2012. Nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán quản trị chiến lược trong các doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế, 264. [4]. Anh, Đ. N. P., 2016. Nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán quản trị và ảnh hưởng của nó đến thành quả doanh nghiệp. Tạp chí kinh tế phát triển, 226(II) tháng 4/2016, 45-53. [5]. Cadez, S., & Guilding, C., 2008. An exploratory investigation of an integrated contingency model of strategic management accounting. Accounting. Organizations and Society, 33(7-8), 836-863. [6]. Chenhall, R. H., & Morris, D., 1986. The impact of structure, environment, and interdependence on the perceived usefulness of management accounting systems. Accounting Review, 16-35. [7]. Gharayba, Fatena, Debi, Ma’Moon, & Nasar, A., 2011. The extent of applying the elements of responsibility accounting in the industrial shareholding companies and its effect on the company’s profitability and operational efficiency. Administrative Sciences, 38(1), 219-234. [8]. Gordon, L. A., & Narayanan, V. K., 1984. Management accounting systems, perceived environmental uncertainty and organization structure: an empirical investigation. Accounting. Organizations and Society, 9(1), 33-47. [9]. Gordon, M. J., 1963. Toward a theory of responsibility accounting systems. NAA Bulletin, 45(4), 3-9. [10]. Granlund, M., & Lukka, K., 1998. Towards increasing business orientation: Finnish management accountants in a changing cultural context. Management Accounting Research, 9(2), 185-211. [11]. Haldma, T., & Lääts, K., 2002. Contingencies influencing the management accounting practices of Estonian manufacturing companies. Management Accounting Research, 13(4), 379-400. [12]. Hansen Don R., M. M. M., 2005. Management Accounting. McGraw-Hill Companies, Inc. [13]. Hoque, Z., & James, W., 2000. Linking balanced scorecard measures to size and market factors: impact on organizational performance. Journal of management accounting research, 12(1), 1-17. [14]. Hùng, T. N., 2016. Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa tại Việt Nam. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ chí Minh. [15]. Libby, T., & Waterhouse, J. H., 1996. Predicting change in management accounting systems. Journal of management accounting research, 8, 137. [16]. Libby, T., & Waterhouse, J. H., 1996. Predicting change in management accounting systems. Journal of management accounting research, 8, 137. [17]. Mia, L., & Clarke, B., 1999. Market competition, management accounting systems and business unit performance. Management Accounting Research, 10(2), 137-158. [18]. O'Connor, N. G., Chow, C. W., & Wu, A., 2004. The adoption of “Western” management accounting/controls in China's state-owned enterprises during economic transition. Accounting. Organizations and Society, 29(3-4), 349-375. [19]. Otley, D., Ashton, D., Hopper, T. and Scapens, R., 1995. Management control: organisational design and accounting information systems. Issues in Management Accounting, pp.45-63, Prentice-Hall, London. [20]. Sethi, N. K., 1977. Responsibility accounting-A new dimension of comprehensive planning process. Industrial Management, 5, 19. [21]. Sollenberger, H. M., 1990. Responsibility accounting: Creating a framework for budgeting. Credit Union Executive, 30(1), 24-27. [22]. Soobaroyen, T., & Poorundersing, B., 2008. The effectiveness of management accounting systems: Evidence from functional managers in a developing country. Managerial Auditing Journal, 23(2), 187-219. [23]. Tuan Mat, T., 2010. Management accounting and organizational change: impact of alignment of management accounting system, structure and strategy on performance. [24]. Williams, J. J., & Seaman, A. E., 2001. Predicting change in management accounting systems: national culture and industry effects. Accounting, Organizations and Society, 26(4-5), 443-460. AUTHOR INFORMATION Cao Thi Huyen Trang Faculty of Accouting - Auditing, Hanoi University of Industry
File đính kèm:
- nghien_cuu_nhan_to_anh_huong_den_viec_to_chuc_ke_toan_trach.pdf