Nghiên cứu mô hình sạc năng lượng cho xe điện và phương án bố trí mô hình trên đường phục vụ du lịch tại thành phố Đà Nẵng
Việc xây dựng mô hình cung cấp năng lượng sử dụng
năng lượng mặt trời cho xe điện đóng vai trò lớn và ý nghĩa quan
trọng cho các phương tiện phục vụ du lịch xanh tại Đà Nẵng. Bài
báo đã phân tích quá trình tối ưu các phương án cung cấp năng
lượng để nạp điện cho xe điện trong thời gian ngắn nhất và tiết
kiệm năng lượng nhất. Mô hình đã được chế tạo và bố trí theo các
phương án tại các điểm dừng của xe điện trong thời gian vận
chuyển khách tại thành phố Đà Nẵng. Kết quả sau khi tối ưu các
phương án đã đưa ra các thông số của năng lượng để so sánh và
đánh giá được nhu cầu sử dụng năng lượng mặt trời để cung cấp
cho xe điện trong tương lai. Bài báo cũng đã đưa ra các giải pháp
trong quá trình cung cấp năng lượng cho xe điện để tiết kiệm năng
lượng và giảm ô nhiễm môi trường góp phần phát triển bền vững
trong vấn đề giao thông sạch trong cả nước.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu mô hình sạc năng lượng cho xe điện và phương án bố trí mô hình trên đường phục vụ du lịch tại thành phố Đà Nẵng
lượng mặt trời để thu năng lượng và kết hợp với lưới điện sẵn có để kết nối và cung cấp cho ắc quy như Hình 3. Với kết cấu của tấm pin năng lượng mặt trời có kích thước (400 mm x 400 mm); đường kính của trụ cung cấp năng lượng 200 mm; chiều dài tổng cộng của trụ là 1200 mm; kích thước của đế trụ (400 mm x 400 mm x 20 mm); bên trong được bố trí 4 ắc qui và bộ lưu trữ năng lượng được điều khiển bán tự động để chọn chế độ nguồn năng lượng khi cần thiết. a. Mô hình thực tế cung cấp năng lượng cho xe điện được chế tạo b. Tấm Pin mặt trời c. Bộ chuyển đổi d. Bộ kết nối ắc quy Hình 3. Mô hình cung cấp năng lượng cho xe điện Thời gian sạc là lúc xe điện ngừng chở hành khách hoặc đậu đỗ đúng thời điểm cung cấp năng lượng theo quy định (được nghiên cứu trong các phương án bố trí của bộ sạc). Các giai đoạn sạc điện dựa theo các phương pháp nghiên cứu trước đó của báo cáo [7]. Nguồn năng lượng mặt trời cung cấp cho xe điện được xây dựng trên cơ sở phân phối dòng điện và lựa chọn theo thời gian từ hai nguồn khác nhau để cung cấp đến các ắc quy, hai nguồn điện nạp cho ắc quy là năng lượng duy nhất không có khí thải trong quá trình sử dụng. Mô hình này có nhiều ưu điểm và có khả năng cạnh tranh cao đến nhu cầu sử dụng năng lượng trên phương tiện giao thông vận tải du lịch như xe điện của Đà Nẵng. 3. Thiết lập phương án bố trí mô hình cung cấp năng lượng cho xe điện phục vụ du lịch 3.1. Xây dựng cơ sở lý thuyết dựa vào phương án bố trí mô hình cung cấp năng lượng Mô hình cung cấp năng lượng cho xe điện du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng được đánh giá qua quá trình sạc cho ắc quy bên trong xe điện theo các thông số như: số lượng xe, số lượng ắc quy, thời gian ra vào sau khi làm việc và cung cấp năng lượng. Những điều kiện ban đầu được tối ưu hóa là số lượng lớn xe điện hoạt động trong suốt thời gian được cung cấp năng lượng, các giá trị của các thông số như: số lượng xe được nạp năng lượng tại các nơi có trạm sạc, thời gian sạc cho số lượng ắc quy có trong xe, thời gian cao điểm khi các xe điện đến nơi sạc và rời đi sau khi được cung cấp đầy năng lượng là những giá trị được thống kê làm cơ sở lý thuyết. Mọi cơ sở đánh giá ban đầu được xuất phát từ quá trình phân phối số lượng xe điện và thu nhận vào để sạc tại những nơi cung cấp điện, trong phân bố xác suất được dựa theo phương pháp của Gaussian và thông kê tối ưu theo phương pháp Taguchi. Các giá trị trung bình và phương sai của quá trình phân phối được xây dựng phù hợp với điều kiện và các số liệu cho phép từ khu vực khảo sát khi dùng xe điện phục vụ trên các tuyến đường vận chuyển theo quy định. 3.1.1. Thuyết tối ưu trên cơ sở mô hình cung cấp năng lượng trong quá trình sạc Trong bất kỳ thời gian (t) nào đó được khảo sát, số lượng xe điện (S) đã và đang được tập trung vào nơi nạp điện để sạc ắc quy trong khoảng thời gian (t) đó. Để xác định được số lượng xe điện tập trung vào và rời khỏi trạm sạc đặt tại nơi công cộng hoặc lưới điện sử dụng trong khoảng thời gian (t), thì tập hợp các phần tử của các xe điện được xem xét, đồng thời tổng thời gian sạc điện khi đến và dừng lại trong khoản thời gian là (t-1) và (t) được xác định bởi các công thức theo báo cáo [8]. S = ∑ Sđã ừ (k) − ∑ N ờ (k) (1) Trong đó: t là thời gian được xác định để xe tập trung và rời khỏi nơi sạc, S là số lượng xe được xác định trong các trường hợp khác nhau và: S ờ (k) = ∗ a: k − 1 < T ừ (a) + Tđỗ(a) ≤ k . Số phần tử của một tập hợp được thực hiện trong các trường hợp như: Sđã ừ (t) là số xe điện đã tập trung vào sạc trong thời gian t-1 và t, N ờ (t) là số xe điện rời sau khi sạc trong thời gian t-1 và t, T ừ , Tđỗ là thời gian tương ứng khi xe dừng lại và thời gian xe sạc điện, Sđã ừ (t), Tđỗ(t) được xác định bằng cách sử dụng chức năng phân phối xác suất thống kê được khảo sát từ chỗ sạc xe điện. Tại khu khảo sát, thực tế hệ thống xe điện được kiểm soát trong ngày bởi những người quản lý, các xe điện tập trung về nơi cung cấp điện duy nhất trong khoản thời gian 11 giờ đêm đến 6 giờ sáng. Nhưng không có xe nào về trạm sạc sau 10 giờ đêm, do đó giá trị trung bình của phân phối là 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng. Ngoài ra, các phân bố xác suất về nhu cầu năng lượng cần sạc cho ắc quy của hệ thống xe điện đi vào bên trong khu vực đỗ xe phụ thuộc vào dung lượng nạp của ắc quy Cắc quy và đoạn đường các xe di chuyển trong suốt một ngày 24 giờ trong ngày. Năng lượng của một xe điện khi đi vào khu vực đỗ xe để sạc ắc quy được quy định bởi phương trình sau: Q ầ (i) = Cắ (i). {C − C(i)} với, Cắc quy là sức chứa của ắc quy kWh, C phần trăm sức chứa của ắc quy, Cmax là giá trị phần trăm lớn nhất để sạc cho ắc quy, Qnhucầu là năng lượng yêu cầu sạc cho xe điện trong thời gian i. ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(96).2015, QUYỂN 2 113 Việc xác định lượng điện cung cấp từ năng lượng mặt trời hay lưới điện trong nhà cho ắc quy trong xe điện theo phương pháp điều khiển được ứng dụng theo các nghiên cứu trước đây như trong báo cáo [9], nó được xét đến tại những nơi tập trung xe điện của các khu nghỉ mát, hoặc nhà ở. Trong chiến lược kiểm soát chế độ của xe điện, chỉ có năng lượng của ắc quy được sử dụng để cung cấp năng lượng chính cho động cơ điện cần thiết cũng như năng lượng được sạc vào theo yêu cầu. Dựa vào các tiêu chuẩn và yêu cầu cũng như các giới hạn cho phép trong điều kiện biên, hàm lượng và điện năng cần thiết một giả thuyết hợp lý bởi các xe điện được thực hiện trong việc kiểm soát khả năng sử dụng và quản lý năng lượng khi chúng hoạt động ra và vào nơi được cung cấp năng lượng, do đó, C = Max C , (C − C ) , với; R là tổng số xe điện được ước lượng đi ra và vào trong thời gian sạc, L là khoảng cách của các trạm sạc điện cho xe trên đoạn đường công cộng và Cmin là giá trị nhỏ nhất cho phép của C trong một khoản thời gian sạc tối thiểu. Pr C = Pr(d ) ; C > C = ∑ Pr(d) ; Cj = Cmin với, (d = ( ) ( ) ). Thời gian sạc là tối thiểu được xác định giữa thời gian đậu xe cần thiết cho toàn bộ thời gian dừng lại như được đưa ra bởi phương trình; Ti = Min Tđậ (i), ầ ( ) và giá trị năng lượng sạc cho bình ắc quy trong mỗi giờ được cho bởi công thức [8]: E ạ đ ệ (i, k) = 5760 t ≤ k < + T Q ầ − 5760(T − 1) 0 trường hợp khác (2) Với k = t + T Nhu cầu năng lượng cung cấp cho ắc quy của xe điện được tính là tổng năng lượng sạc được vào mỗi xe điện được ra và vào nơi cung cấp năng lượng và theo công thức: E ạ total (t) = ∑ E ạ (m, t); t = 1: 24 giờ : . Với điều kiện cần thiết để sạc vào ắc quy là: 0 ≤ E ạ (t) ≤ 5760. S (t) và E ạ (0) = E ạ (T) = 0 thì giá trị cần thiết của năng lượng để sạc cho ắc quy của tất cả các xe điện trong một ngày làm việc được xác định theo công thức sau [8]: E ạ (t + 1) = E ạ (t) + ầ (t) − (E ặ ờ ( ) + E ướ đ ệ (t))∆u (3) 3.1.2. Lập phương án bố trí mô hình cung cấp năng lượng tại các tuyến đường tại Đà Nẵng Sau khảo sát các tuyến đường phục vụ du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, các xe điện sử dụng năng lượng mặt trời đang được triển khai để chở hành khách thăm quan theo các tuyến đường quanh biển và khu vực phục vụ du lịch của Thành phố. Cần đảm bảo cho xe điện hoạt động trên địa bàn rộng, số lượng xe lớn, thời gian hoạt động liên tục và quãng đường di chuyển dài hơn so với thời gian mà năng lượng ắc quy trong xe điện hoạt động. Trên cơ sở của bản đồ du lịch thành phố, trong Hình 4 đã đưa ra hai tuyến đường là Nguyễn Tất Thành và Võ Nguyên Giáp để bố trí mô hình cung cấp năng lượng cho xe điện với số lượng là 6 địa điểm, gần chỗ các hành khách dừng chân và xe điện tạm nghĩ sau thời gian hoạt động. Hình 4. Sơ đồ bố trí mô hình sạc điện theo các tuyến đường đi của xe điện du lịch ở Đà nẵng Mô hình sạc điện được bố trí tương ứng với tổng số lượng xe điện trên địa bàn thành phố được triển khai để phục vụ khách du lịch, xe điện được cung cấp với phương án đầu tiên là những chỗ hay tập trung và là khu vực khách có thể dừng chân để thăm quan nhiều nhất để có thời gian nạp điện. 3.2. Kết quả tối ưu quá trình sạc cho xe điện trong điều kiện sử dụng hai nguồn năng lượng Để tìm điểm tối ưu, bài báo đã sử dụng hai thuật toán tương ứng để kiểm soát thời gian sạc của mỗi xe cần thiết trong quá trình hoạt động của xe theo các điều kiện cho phép của phương pháp. 3.2.1. Quá trình sạc điện trong điều kiện tối ưu không có thông số kiểm soát Hình 5. Mức năng lượng sạc cho ắc quy xe điện khi không có kiểm soát Bộ cung cấp năng lượng được bố trí tại các nơi khác nhau trên các tuyến đường, với các khoảng cách khác nhau, thời gian vận chuyển cho phép. Vì thế, để có thể phân tích thì chúng ta chia ra hai trường hợp cụ thể là: dùng một xe điện để sạc trong khoảng thời gian ra và vào, hơn nữa cũng xét đến một số lượng xe điện để sạc theo thời gian khác nhau sau khi làm việc trong ngày. Trong Hình 5, thời gian sạc cho ắc quy của xe điện được xác định khác nhau, quá trình được thực hiện trong bất cứ thời gian nào của 24 giờ trong ngày. Giai đoạn sạc điện cho ắc quy, được xem xét là sạc cả ban ngày (lúc đang hoạt động) và ban đêm (lúc xe tập trung về nơi đậu đỗ). Các giá trị tiêu thụ của năng lượng cho cả ngày lẫn đêm cũng được đánh giá dựa vào các nghiên cứu như 114 Phạm Minh Mận trong báo cáo [8]. Năng lượng mặt trời được chuyển đổi để đạt được kết quả lớn nhất là lúc làm việc trên đường khoản 40 kW đến 50 kW và lưu trữ để cung cấp cho các xe điện nhiều hơn vào ban ngày, tức là từ 6 giờ sáng đến 18 giờ tối hằng ngày. Trong trường hợp này, khi cung cấp điện trong thời gian từ lúc bắt đầu đến lúc đã đủ năng lượng cho ắc quy, số liệu thống kê với khoảng thời gian tập trung hay đỗ xe Tđỗ (i) và lượng năng lượng điện được sạc C dùng để tính toán thời gian sạc cho ắc quy một cách liên tục mãi đến 5.76 kW, như bảng dung lượng của ắc quy trong Bảng 1. 3.2.2. Quá trình sạc điện trong điều kiện tối ưu có thông số kiểm soát Dung lượng và thời gian cần thiết để sạc cho ắc quy trong hệ thống xe điện được tính toán dựa vào các phép đo là nạp và xả điện khi cần thiết. Mức năng lượng tối đa để nạp được 100% cho ắc quy là rất quan trọng để đáp ứng quảng đường vận chuyển, tại lúc điện áp được sạc vào phải đạt được các mức có khả năng tối đa và công suất tương ứng với các loại ắc quy được sử dụng trong xe. Hình 6. Mức năng lượng sạc cho ắc quy xe điện khi có thông số kiểm soát Theo thuật toán, để điều khiển và kiểm soát khi tối ưu được thiết lập thì các tính chất ngẫu nhiên của nguồn năng lượng mặt trời thông qua ánh sáng thay đổi theo giờ, thời tiết, mùa, và các yếu tố ảnh hưởng khác cũng rất quan trọng. Đồng thời, số lượng xe điện ra vào tại khu vực đậu đỗ trong suốt thời gian sạc và nhu cầu cần thiết của từng xe được cung cấp điện từ năng lượng mặt trời đạt được điểm tối ưu. So sánh nguồn năng lượng điện để sạc cho ắc quy từ nguồn năng lượng mặt trời và lưới điện khi sử dụng hai thuật toán điều khiển thể hiện khá rõ nét trên đồ thị của Hình 5 và Hình 6, và mức tiêu thụ của năng lượng mặt trời cho xe điện là nhiều nhất. Trên hình cũng cho thấy khả năng phân bố của năng lượng và sạc cho xe điện từ năng lượng mặt trời và lưới điện là khác nhau. Đánh giá tại các điểm tối ưu khi sử dụng năng lượng mặt trời và lưới điện đáp ứng nguồn năng lượng cho xe điện được thực hiện trên biểu đồ. Tại các nơi sạc cho ắc quy của xe điện, trong trường hợp không có thông số kiểm soát của điều kiện tối ưu năng lượng điện từ các tòa nhà được sạc đạt đỉnh cao hơn nhưng ngược lại khi có kiểm soát các thông số thì mức sử dụng năng lượng mặt trời là lớn nhất. 4. Kết luận Sau khi xây dựng mô hình thực tế và thực hiện phương án lý thuyết để bố trí mô hình trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Ngoài ra, xác định điểm tốt nhất để cung cấp năng lượng cho xe điện phục vụ du lịch, bài báo đã đánh giá khả năng sử dụng năng lượng mặt trời hoặc lưới điện để cung cấp cho xe điện trong thời gian 24h trong hai trường hợp có và không có thông số kiểm soát trong quá trình nghiên cứu. Sau quá trình thiết lập mô hình, đánh giá thời gian cung cấp năng lượng theo phương pháp Gaussian và Taguchi đến với từng xe điện trong quảng đường giới hạn cho phép. Kết quả đã so sách, đánh giá và đáp ứng được thời gian và quảng đường cũng như số lượng xe điện ra vào trong suốt thời gian nạp năng lượng. Ngoài ra, khi phân tích nhu cầu năng lượng cung cấp cả ban ngày (năng lượng mặt trời) và ban đêm (lưới điện) cho xe điện trên điều kiện ánh sáng mặt trời trong ngày, nghiên cứu cũng đưa ra mô hình điều khiển sạc vào ban đêm là tốt nhất và nó được thực hiện trong khoảng thời gian bắt đầu từ 11 giờ khuya đến 6 giờ sáng ngày tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] P. Tulpule, V. Marano, S. Yurkovich, G. Rizzoni, “Economic and environmental impacts of a PV powered workplace parking garage charging station”, Apply Energy, số 108, 2013, trang 323–332. [2] D.P. Birnnie III, “Solar-to-vehicle (S2V) systems for powering commuters of the future”, J Power Sources, số 186, 2009, trang 539– 542. [3] H.M. Neumann, D. Schär, F. Baumgartner, “The potential of photovoltaic carports to cover the energy demand of road passenger transport”, Prog Photovolt: Res Appl, số 20, 2012, trang 639–649. [4] Binh Van Doan, Bach Ngoc Nguyen, “The current status and renewable energy outlook in Vietnam up to 2030”, In: Presented at Asian Renewable Energy Workshop, Chiang Mai, Thailand, 2013, trang 16. [5] Aoife. Foley, Barry. Tyther, Patrick. Calnan, Brian Ó. Gallachóir, “Impacts of electric vehicle charging under electricity market operations”, Appl Energy, số 101, 2013, trang 93–102. [6] Samveg Saxena, Anand Gopal, Amol Phadke, “Electrical consumption of two-, three- and four-wheel light-duty electric vehicles in India”, Appl Energy, số115, 2014, trang 582–590. [7] Pinak J. Tulpule, Vincenzo Marano, Stephen Yurkovich, Giorgio Rizzoni, “Economic and environmental impacts of a PV powered workplace parking garage charging station”, Applied Energy, số 108, 2013, trang 323-332. [8] Minh Man Pham, Minh Nhan Pham, Tra Qui Phan, “An investigation into green energy-powered vehicles for tourism in Vietnam”, Procceding of The 2nd International Conference on Green Technology and Sustainable Development 2014, ISBN: 978-604- 73-2817-8, Vol. 1, S1, 58-63. [9] Ferreira Joao C, Afonso Joao Luiz. “Towards a collective knowledge for a smart electric vehicle charging strategy”. IEEE 3rd international conference on communication software and networks (ICCSN) 2011, 2011, trang 735–39. (BBT nhận bài: 30/07/2015, phản biện xong: 01/10/2015)
File đính kèm:
- nghien_cuu_mo_hinh_sac_nang_luong_cho_xe_dien_va_phuong_an_b.pdf