Nghiên cứu mô hình cơ học và tính toán sự ổn định của thiết bị phát điện từ năng lượng sóng biển
Báo cáo đưa ra các kết quả đạt được trong nghiên cứu thiết lập mô hình cơ học về thiết bị chuyển
đổi năng lượng sóng biển sang năng lượng điện. Mô hình thiết bị hoạt động theo phương thẳng
đứng của sóng biển, phao thả nổi trên mặt biển và truyền năng lượng nhận được từ sóng biển đến
môtơ phát điện được gắn cố định ở đáy biển thông qua dây cáp. Các tính toán đưa ra một cấu trúc
mô hình thiết bị được nghiên cứu và thiết lập, chỉ ra vùng hoạt động ổn định và mất ổn định của mô
hình, phạm vi dao động và xác định mức công suất thiết bị nhận được theo các điều kiện sóng biển
thực tế Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu mô hình cơ học và tính toán sự ổn định của thiết bị phát điện từ năng lượng sóng biển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu mô hình cơ học và tính toán sự ổn định của thiết bị phát điện từ năng lượng sóng biển
coscos )cos( cossin 1 0 2 3 00 0 2 3 00 gxB B xax aca dt d a gxB B xax aca dt da (8) Ta đặt: .sinsin coscos)cos( cossin),,( 0 2 3 0 0 gxB Bxa xacaaF Áp dụng phương pháp trung bình hóa của cơ học phi tuyến, hệ phương trình (8) được viết dưới dạng: 2 0 2 0 .cos),,( 2 11 ,sin),,( 2 11 daF dt d a daF dt da (9) Thực hiện tính toán ta được: .cos3 4 3 2 1 ,sin 2 1 2 0 3 Bxaaa dt d a Bca dt da Cho 0, 0a ta được các công thức xác định nghiệm dừng: .3 4 3 cos ,sin 0 2 0 2 00 00 axaB caB (10) Giải hệ phương trình (10), ta nhận được phương trình hàm biên độ - tần số như sau: .3 4 3 22 2 0 2 2 0 2 0 22 c a B xa (11) Hình 3 đưa ra các đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa biên độ a0 theo tần số Ω 2 với các thông số được lấy như sau: m = 25 kg; r = 0,35 m; g = 9,81 m/s 2 ; x0 = 0,4 m; kL = 1900 N/m và kN = 700 N/m 3 , ở các trường hợp hệ số cản γem khác nhau tại sóng biển có biên độ 0,5 m. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) 30 Số 25 Hình 3. Đồ thị đường cong cộng hưởng biên độ theo tần số Ω 2 , với A = 0,5 m Hình 4 đưa ra các đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa biên độ a0 theo tần số Ω 2 với các thông số mô hình: m = 35 kg; r = 0,45 m; g = 9,81 m/s 2 ; x0 = 0,5 m; kL = 2200 N/m và kN = 2000 N/m 3 , các hệ số cản γem thay đổi tại sóng biển có biên độ 0,75 m. Hình 4. Đồ thị đường cong cộng hưởng biên độ theo tần số Ω 2 , với A = 0,75 m Từ biểu thức (11) và các đồ thị trên cho thấy, với từng hệ số cản γem, dạng đường cong biên độ theo tần số Ω2 của hệ là khác nhau và phức tạp. Cụ thể, trong trường hợp đồ thị đường cong biên độ - tần số với hệ số cản γem = 40 trên hình 3 và γem = 80 trên hình 4, cho thấy khi Ω 2 tăng, biên độ dao động dừng a0 nhận các giá trị trên nhánh đi từ điểm (I) qua điểm (II) đến điểm (III). Tại điểm (III) xảy ra hiện tượng mất ổn định, biên độ dao động tụt xuống điểm (V), rồi nhận các giá trị trên nhánh đi từ điểm (V) sang điểm (VI). Khi Ω2 giảm, biên độ dao động dừng nhận các giá trị trên nhánh đi từ điểm (VI) qua điểm (V) đến điểm (IV). Tại điểm (IV) có hiện tượng nhảy vọt biên độ dao động từ điểm (IV) lên điểm (II), rồi biên độ nhận các giá trị trên nhánh đi từ điểm (II) về phía điểm (I). Do vậy, nhìn chung vùng dao động ổn định là nhánh trong vùng tần số từ điểm (I) đến điểm (II) và vùng tần số từ điểm (V) đến điểm (VI). Trong vùng tần số đi từ điểm (II) đến điểm (III) và giảm từ điểm (V) về điểm (IV), dao động của hệ có nhảy mức với biên độ dao động không ổn định, đây là vùng nguy hiểm cần tránh khi tính toán chế tạo thiết bị hoạt động. Mặt khác, nếu có đủ số liệu về điều kiện sóng biển thực tế tại các vùng biển có biên độ sóng lớn, ta có thể khai thác mô hình hoạt động ở vùng tần số ổn định gần điểm (II) để biên độ dao động của hệ nhận được là lớn nhất và năng lượng hệ nhận được từ sóng biển là lớn nhất. Do vậy, để thiết bị hoạt được ổn định và phù hợp với điều kiện thực tế của sóng biển, thiết bị nên được lựa chọn chế tạo hoạt động trong vùng tần số ở miền (I), các giá trị tần số trong miền (I) là đều an toàn so với phạm vi dao động của sóng biển thực tế Việt Nam. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 25 31 4. KHẢO SÁT SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA THIẾT BỊ VÀ THẢO LUẬN Trong tính toán mức công suất cơ hệ P của mô hình thiết bị nhận được từ năng lượng sóng biển được xác định theo biểu thức [1,2]: 0 ,)( 1 2dttzP em (12) với τ là khoảng thời gian được xét. Trong thực tế sự biến đổi của sóng biển là phức tạp, các số liệu về sóng biển thường được xác định từ quan trắc và khảo sát thực nghiệm. Giá trị độ cao sóng biển được sử dụng trong các tính toán là mức độ cao sóng trung bình, tần số của sóng biển được sử dụng là tần số sóng xuất hiện với tần suất liên tục trong thời gian dài. Do vậy, hàm sóng biển tác dụng lên mô hình được xét dưới dạng sóng tuyến tính chuyển động theo phương thẳng đứng z có dạng: ,)sin( 0ztAzs (13) Trong mô phỏng số các thông số mô hình được xác định với: A = 0,75 m; m = 30 kg; Sb = 0,5027 m 2 ; γem = 3400 Ns/m; kL = 2200 N/m; kN = 2000 N/m 3 ; z0 = 5,5 m và ω = 1,47 rad/s (là tần số sóng biển xuất hiện với tần suất lớn tại biển Hòn Dấu – Hải Phòng đã được khảo sát đo đạc thực tế [13]). Các thông số của mô hình đã được tác giả tính toán tối ưu với kết quả nhận được ở các công trình [13,14,21]. Các số liệu về biên độ và chu kỳ sóng được tính toán cho biển Hòn Dấu – Hải Phòng để tiến tới sau khi chế tạo sẽ đưa thiết bị vào sử dụng tại biển Hòn Dấu. Các kết quả tính toán cho phép xác định biên độ dao động của phao, quỹ đạo pha và đồ thị công suất cơ hệ P của thiết bị nhận được từ năng lượng sóng biển. Hình 5 đưa ra đồ thị về chuyển động của phao và sóng biển theo thời gian. Hình 5. Chuyển động của phao và sóng biển theo thời gian Từ kết quả đồ thị nhận được cho thấy chuyển động của phao luôn trễ pha so với chuyển động của sóng biển là 33,93o. Với biên độ của sóng biển là 0,75 m, biên độ dao động của hệ phao ghép nối thanh răng - piston là 0,418 m. Hình 6 đưa ra đồ thị quỹ đạo pha mô hình chuyển động dưới tác dụng của sóng biển. Hình 6. Quỹ đạo pha TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) 32 Số 25 Từ đồ thị nhận được cho thấy quỹ đạo chuyển động của mô hình thiết bị có dạng đường elip khép kín. Do vậy, mô hình thiết bị hoạt động ổn định dưới tác dụng của sóng biển, phạm vi dao động xung quanh vị trí cân bằng ở mặt nước biển 5,5 m (với hệ tọa độ được gắn ở đáy biển). Hình 7 đưa ra đồ thị xác định mức công suất cơ hệ của thiết bị nhận được từ năng lượng sóng biển tại các chu kỳ sóng T1 = 3,5 giây; T2 = 4,0 giây; T3 = 4,26 giây và T4 = 4,5 giây theo biên độ sóng biển. Hình 7. Đồ thị công suất cơ hệ của thiết bị nhận được theo biên độ sóng tại các chu kỳ sóng biển Từ đồ thị ta thấy, mức công suất cơ hệ của thiết bị phụ thuộc đồng thời vào cả biên độ và chu kỳ của sóng biển. Ở sóng biển có chu kỳ nhỏ mức công suất nhận được là lớn hơn ở sóng biển có chu kỳ lớn. Do ở chu kỳ sóng nhỏ, sóng biến đổi nhanh nên tốc độ chuyển động của trục thanh răng – piston sẽ nhanh và kéo môtơ phát điện chuyển động nhanh, dẫn đến mức điện áp và cường độ dòng điện phát ra đạt lớn. Giá trị công suất tăng dần khi biên độ sóng biển càng lớn. Ngoài ra, từ đồ thị đường cong công suất nhận được cho ta định lượng mức công suất điện phát ra của thiết bị khi hoạt động thực tế tại biển. Để khảo sát sự ảnh hưởng của thành phần phi tuyến trong mô hình, tác giả tính toán mức công suất cơ hệ của thiết bị nhận được theo biên độ sóng biển tại tần số sóng biển 1,47 rad/s (xem hình 8). Trong đó, hệ số phi tuyến kN được lấy với các giá trị kN = 0 (xét hệ tuyến tính); kN = 700 N/m 3 ; kN = 1400 N/m 3 và kN = 2000 N/m 3 . Các kết quả nhận được cho thấy ở biên độ sóng nhỏ, chẳng hạn ở biên độ sóng 0,3 m, giá trị công suất chênh lệch giữa hai trường hợp khi xét hệ tuyến tính và phi tuyến với kN = 2000 N/m 3 là rất nhỏ. Với sóng biển có biên độ 0,75 m, giá trị công suất chênh lệch trong hai trường hợp là 5,5%. Tương tự với sóng có biên độ 1,5 m giá trị chênh lệch là 19,4%. Hình 8. Đồ thị đặc trưng công suất cơ hệ nhận được theo biên độ sóng biển Từ kết quả nhận được cho thấy khi thiết bị hoạt động ở sóng biển có biên độ từ 0,75 m trở lên, sự khác biệt khi xét mô hình có ảnh hưởng của sự phi tuyến lò xo TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 25 33 và bỏ qua thành phần phi tuyến (ứng với kN = 0) là rõ rệt. Do vậy, khi tính toán thiết bị hoạt động ở vùng biển có biên độ sóng lớn, sự phi tuyến của lò xo trong mô hình cần được xét đến nhằm thu được kết quả sát với thực tế. Với các kết quả nhận được trong tính toán khảo sát sự hoạt động của thiết bị, sẽ là cơ sở xác định các thông số của thiết bị trong thiết kế như: kích thước phao, chiều dài các trục thanh răng - piston, lựa chọn môtơ phát điện và mức tỉ số truyền của bộ tăng tốc chuyển động quay, nhằm đạt được mức công suất điện cần phát ra theo điều kiện thực tế của sóng biển tại nơi thiết bị sau khi chế tạo sẽ đưa vào khai thác sử dụng. 5. KẾT LUẬN Báo cáo đã đưa ra cấu trúc một mô hình thiết bị phát điện từ năng lượng sóng biển được thiết lập hoạt động theo phương thẳng đứng, phần phát điện được gắn cố định ở đáy biển sẽ không bị ảnh hưởng bởi sóng và bão biển tác động. Phao của thiết bị thả nổi trên mặt biển và truyền năng lượng nhận được từ sóng biển đến môtơ phát điện của thiết bị. Mô hình thiết bị được phân tích xây dựng với việc sử dụng môtơ phát điện công nghiệp sẵn có trên thị trường để phát điện ổn định. Các kết quả tính toán nhận được đã chỉ ra vùng hoạt động ổn định và không ổn định của mô hình, phạm vi dao động của mô hình và mức công suất thiết bị nhận được theo điều kiện sóng biển thực tế Việt Nam. Các kết quả nhận được sẽ là cơ sở để tiến tới thiết kế chế tạo thiết bị sử dụng trong thực tế. Nhằm góp phần cung cấp điện năng cho kinh tế biển nói chung, điện năng sử dụng trên các nhà dàn DKI hay các đảo ngoài khơi, cũng như điện năng đảm bảo an ninh quốc phòng ngoài biển đảo. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] M. Eriksson, J. Isberg, M. Leijon, Hydrodynamic modelling of a direct drive wave energy converter, International Journal of engineering Science 43, pp. 1377-1387, 2005. [2] J. Engstro, M. Erikson, J. Isberg, M. Leijon, Wave energy converter with enhanced amplitude response at frequencies coinciding with Swedish west coast sea states by use of a supplementary submerged body, Journal of Applied Physics, 106, 064512, 2009. [3] Marco Trapanese. Optimization of sea wave energy harvesting electromagnetic device, IEEE Transactions on Magnetics, 44, pp. 4365-4368, 2008. [4] Vincenzo Franzitta, Antonio Mesineo and Marco Trapanese, An approach to the conversion of the power generated by an offshore wind power farm connected into sea wave power generator, The open renewable energy journal, 4, pp. 19-22, 2011. [5] António F.O. Falcão. Modelling of Wave Energy Conversion. Instituto Superior Técnico, Universidade Técnica de Lisboa, Portugal, 2014. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) 34 Số 25 [6] Nagulan Santhosh, Venkatesan Baskaran, Arunachalam Amarkarthik, A review on front end conversion in ocean wave energy converters, Front. Energy 2015, 9 (3): 297–310, 2015. [7] B. Drew, A.R. Plummer, and MN Sahinkaya, A review of wave energy converter technology, Proc. IMechE Vol. 223 Part A: J. Power and Energy, pp.887-902, 2009. [8] Keisuke Taneura, Kimihiko Nakano, Pallav Koirala and Kesayoshi Hadano, On the resonance characteristics of the float type wave power generation device, Journal of Environment and Engineering, 6 (3), pp. 542-553, 2011. [9] J.H. Choi, J.S. Park, G.S. Ham, J.S. Choi, Simulation of wave generation system with linear generator, Proceedings of the 3rd International Conference on Industrial Application Engineering 2015, Japan, pp. 537-541, 2015. [10] Đề tài cấp Nhà nước (KC.05-17/06-10), Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị phát điện sử dụng năng lượng sóng biển, Bộ Khoa học và công nghệ, 2011. [11] Nguyễn Thế Mịch, Nguyễn Chí Cường, Nghiên cứu tính toán hệ thống phát điện bằng năng lượng sóng quy mô công suất nhỏ, Hội nghị Cơ học kỹ thuật toàn quốc, tr. 361-366, 2014. [12] Báo cáo đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm mô hình phát điện ổn định, hiệu suất cao bằng năng lượng sóng biển - VAST07.04/14-15, 2016. [13] Báo cáo đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam: Nghiên cứu, chế tạo mẫu thiết bị phát điện từ năng lượng sóng biển, VAST01.10/16-17”, 2018. [14] Nguyen Van Hai, Nguyen Dong Anh, Nguyen Nhu Hieu, Fabrication and experiment of an electrical generator for sea wave energy, Vietnam Journal of Science and Technology, 55 (6), pp. 780-792, 2017. [15] Nguyễn Mạnh Hùng, Dương Công Điển và nnk, Năng lượng sóng biển khu vục biển đông và vùng biển Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 2009. [16] Phùng Văn Ngọc, Nguyễn Thế Mịch, Lê Vĩnh Cẩm, Đoàn Thị Vân, Nghiên cứu thiết bị chuyển đổi năng lượng sóng biển thành năng lượng điện dạng phao nổi, Tạp chí Khoa học và Công nghệ thủy lợi, tr. 52-59, 2014. [17] ITTC-Recommended Procedures: Fresh Water and Seawater Properties, 26th ITTC Specialist Committee on Uncertainly Analysis, No. 7.5-02-01-03, 2011. [18] Đinh Văn Ưu, Nguyễn Thọ Sáo, Phùng Văn Hiếu, Thủy Lực Biển, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. [19] Nguyễn Văn Đạo, Trần Kim Chi, Nguyễn Dũng, Nhập môn Động lực học phi tuyến và Chuyển động hỗn độn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005. [20] Nguyễn Văn Khang, Dao động phi tuyến ứng dụng, Nhà xuất bản Bách khoa Hà Nội, 2016. [21] Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Đông Anh, Nguyễn Như Hiếu, Nghiên cứu, tính toán thiết bị phát điện công suất nhỏ từ năng lượng sóng biển, Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 2 về Cơ kỹ thuật và Tự động hóa, Hà Nội (7-8/10/2016), tr. 216-219, 2017. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 25 35 Giới thiệu tác giả: Tác giả Nguyễn Văn Hải tốt nghiệp đại học và nhận bằng Thạc sĩ tại Trường Đại học Khoa học tự Nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội vào các năm 1998 và 2004; năm 2019 nhận bằng Tiến sĩ chuyên ngành cơ kỹ thuật (cơ điện tử) tại Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hiện nay tác giả đang công tác tại Viện Cơ học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hướng nghiên cứu chính: nghiên cứu mô hình, tính toán thiết kế và xây dựng các hệ thống phát điện từ các nguồn năng lượng mới và tái tạo, đặc biệt là phát điện từ nguồn năng lượng sóng biển. Tác giả Nguyễn Đông Anh tốt nghiệp đại học tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Taskent năm 1977, nhận bằng Tiến sĩ chuyên ngành cơ học tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Kiev năm 1985; nhận bằng Tiến sĩ khoa học chuyên ngành cơ học tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Kiev năm 1986; năm 1996 được công nhận học hàm Giáo sư. Hiện nay tác giả đang công tác tại Viện Cơ học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hướng nghiên cứu chính: dao động của các hệ cơ học, dao động ngẫu nhiên và tiền định phi tuyến, điều khiển kết cấu, giảm dao động có hại cho các hệ kỹ thuật.
File đính kèm:
- nghien_cuu_mo_hinh_co_hoc_va_tinh_toan_su_on_dinh_cua_thiet.pdf