Nghiên cứu, lựa chọn số lá cánh máy bơm ly tâm cột áp thấp và số lá cánh động cơ gió cho hệ thống máy bơm nước mặn sử dụng năng lượng gió phục vụ sản xuất muối cho vùng ven biển
Bài báo này tập trung phân tích ảnh hưởng của số cánh bơm ly tâm và số cánh của động cơ
gió đến các đặc tính thủy lực cho một hệ thống máy bơm ly tâm cột nước thấp chạy bằng động cơ gió
(ký hiệu LTM 15 – 1,2kW), phục vụ bơm nước biển cho sản xuất muối. Đây là mô hình đã lắp đặt và
ứng dụng tại Hòn Khói (Khánh Hòa). Năm phương án số cánh bơm bao gồm 2,3,4,5 và 6 cánh và hai
phương án số cánh tuabin gió là 4 và 6 đã được khảo sát. Kết quả cho thấy số cánh bơm là 5 và số cánh
tuabin gió là 6 cho hiệu suất tổ máy tuabin gió – máy bơm là tốt nhất, đảm bảo khả năng cung cấp nước
mặn cho diện tích ruộng muối F=(1÷2) ha. Các kết quả sau đó được kiểm chứng thực nghiệm tại hiện
trường cho thấy máy bơm thiết kế đạt được các thông số thiết kế bao gồm: Cột nước H=(1,1÷1,75)m,
lưu lượng Q =(15÷42)m3/h, hiệu suất máy bơm đạt ηb = (27÷60)%, tốc độ gió V= (3÷7)m/s.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu, lựa chọn số lá cánh máy bơm ly tâm cột áp thấp và số lá cánh động cơ gió cho hệ thống máy bơm nước mặn sử dụng năng lượng gió phục vụ sản xuất muối cho vùng ven biển
à thiết kế theo lý thuyết (Lê Danh Liên, 2011), các thông số kỹ thuật chính của bánh công tác máy bơm ly tâm LTM 20-1,2 được cho như bảng 2, hình 1, hình 2 và hình 3. Bảng 1. Các thông số đầu vào tính toán Thông số Đơn vị Giá trị Cột nước H m 1 ÷1,5 Lưu lượng Q m3/h 10 ÷15 Số vòng quay trục bơm nb v/ph 150 ÷ 300 Công suất động cơ gió N kW 1,2 Bảng 2. Các thông số hình học chính của máy đã thiết kế Thông số Đơn vị Giá trị Đường kính ngoài cửa vào bánh công tác D0 mm 150 Đường kính mép vào bánh công tác D1 mm 160 Đường kính mép ra bánh công tác D2 mm 470 Chiều rộng tiết diện kinh tuyến tại cửa vào b1 mm 60 Chiều rộng tiết diện kinh tuyến tại cửa ra b2 mm 23 Góc nghiêng lá cánh β1,0 12 0 Góc dòng chảy bao lá cánh β1 17 0 Hình 1. Kích thước cơ bản của bánh công tác máy bơm ly tâm nước mặn, trục đứng LTM 20-1,2 Hình 2. Biên dạng prôphin cánh bánh công tác máy bơm ly tâm nước mặn Hình 3. Sản phẩm bánh công tác bơm ly tâm LTM 20-1,2 đã thiết kế KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 73 (3/2021) 56 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1 Kết quả xác định số cánh bơm Z Với máy bơm ly tâm sử dụng động cơ gió công suất N = 1,2kW, tiến hành mô phỏng cho các trường hợp máy bơm có số lá cánh: Z = 2, 3, 4, 5 và 6 cánh. Một số kết quả điển hình cho dưới hình 4, hình 5 và hình 6. a) 2 cánh b) 3 cánh c) 5 cánh Hình 4. Trường phân bố vận tốc dòng chất lỏng trong hệ thống dẫn dòng a) 2 cánh b) 3 cánh c) 5 cánh Hình 5. Trường phân bố vận tốc dòng chất lỏng trong hệ thống dẫn dòng theo mặt cắt kinh tuyến bánh công tác Hình 6. Kết quả mô phỏng hiệu suất máy bơm Đối với trường hợp máy bơm ly tâm có 2 lá cánh (Hình 4a), thông qua hình ảnh mô phỏng cho thấy dòng chất lỏng phân bố không đều, có hiện tượng rối dòng tại vị trí chuyển tiếp của máng dẫn, khi ấy, tại vị trí chuyển tiếp, vận tốc dòng chảy rất thấp, V < 0,5 m/s. Hình 5a cho thấy vùng xoáy rộng tại khu vực chuyển tiếp của dòng chảy, đây là nguyên nhân gây ra tổn thất trong máy bơm, dẫn đến hiệu suất máy bơm giảm. Đặc biệt, tại vị trí này sẽ dễ gây nên xâm thực trong bơm, dẫn đến độ bền giảm, máy bơm làm việc không ổn định, sau một thời gian sẽ bị rung, ồn. Kết quả Hình 6 cho thấy hiệu suất lớn nhất của máy bơm trong trường hợp 2 lá cánh đạt chỉ đạt ηb2max = 37%. Nói chung, đối với máy bơm ly tâm công suất nhỏ, cột áp thấp, hiệu suất này vẫn có thể chấp nhận được. Đối với trường hợp máy bơm ly tâm có 3 lá cánh. Hình 4b cho thấy tình hình dòng chảy trong hệ thống dẫn dòng được cải thiện hơn so với trường hợp 2 lá cánh. Tại vị trí chuyển tiếp của KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 73 (3/2021) 57 máng dẫn vẫn còn hiện tượng rối dòng, vận tốc tại góc dưới của máng dẫn cũng chỉ đạt V < 0,5m/s. Tuy nhiên, vùng rối không lan rộng như đối với trường hợp Z = 2, vận tốc dòng chảy tại miệng ra của buồng xoắn (thoát ra khỏi bánh công tác) (Hình 5b) tăng lên nhiều so với Z = 2, giá trị vận tốc đạt V= (1,5÷2,5)m/s. Hình 6 cho thấy hiệu suất lớn nhất của máy bơm trong trường hợp 3 lá cánh đạt ηb3max = 43,8%. Như vậy, trường hợp máy bơm sử dụng số lá cánh Z =3, hiệu suất tăng lên đáng kể so với máy bơm có Z = 2 ở cùng chiều cao bơm. Kết quả mô phỏng trường hợp số cánh Z = 5 về tình hình dòng chảy trong bộ phận dẫn dòng (Hình 4c và Hình 5c) cho thấy tại vị trí chuyển tiếp của dòng chảy trong máng dẫn không còn hiện tượng rồi dòng như đối với 2 trường hợp trên. Tuy nhiên, tại vị trí mép ra của máng dẫn trong trường hợp này lại có hiện tượng dòng bị rối, nguyên nhân có thể do dòng lưu lượng dòng chảy tại vị trí miệng ra lớn hơn 2 trường hợp Z = 2, 3. Tuy vậy, bề rộng tại mép ra (b2) không thay đổi so với 2 trường hợp trên. Đây cũng là yếu tố dẫn đến tổn thất của máy bơm. Vì vậy, nhóm tác giả đã xem xét và tính toán để tăng bề rộng b2 nhằm nâng cao khả năng thoát của dòng chất lỏng tại mép ra, giảm thiểu dòng rối tại vị trí này, tăng hiệu suất của máy bơm. Theo kết quả mô phỏng Hình 6, hiệu suất lớn nhất của máy bơm trong trường hợp 5 lá cánh đạt ηb5max = 50,2%. Tiếp tục tăng số cánh Z lên 6 cánh thì hiệu suất bắt đầu giảm xuống còn 46,1%. Như vậy, trường hợp máy bơm sử dụng số lá cánh Z= 5 cho hiệu suất máy là cao nhất. Kết quả mô phỏng trên phù hợp với lý thuyết của máy cánh dẫn, nghĩa là, hiệu suất của máy bơm sẽ tăng khi tăng số lá cánh và đối với máy bơm lý tưởng, sẽ có số lá cánh nhiều vô cùng, chiều dày là cánh vô cùng mỏng. Khi so sánh với nghiên cứu của (Sanjay et al, 2014) cho thấy với cùng giá trị về số vòng quay đặc trưng ns thì thông số Z trong nghiên cứu đưa ra là phù hợp. Dựa vào kết quả trên, số cánh Z=5 được lựa chọn để tính toán và thiết kế các bước tiếp theo. 4.2 Kết quả tính toán số cánh động cơ gió ztb Bảng 3. Kết quả tính toán 2 phương án số cánh của động cơ gió (Ztb=4 và 6) Ztb=4 Ztb=6 Mặt Cắt r (m) φº βº λr C (m) λo λr C (m) λo 1 0,25 53,77 47,27 0,40 0,7 4,0 0,30 0,60 3,0 2 0,475 34,30 27,80 0,76 0,66 4,0 0,57 0,63 3,0 3 0,7 24,46 17,96 1,12 0,54 4,0 0,84 0,56 3,0 4 0,925 18,83 12,33 1,48 0,45 4,0 1,11 0,48 3,0 5 1,15 15,26 8,76 1,84 0,38 4,0 1,38 0,42 3,0 6 1,375 12,81 6,31 2,20 0,32 4,0 1,65 0,36 3,0 7 1,6 11,03 4,53 2,56 0,28 4,0 1,92 0,32 3,0 8 1,825 9,68 3,18 2,92 0,27 4,0 2,19 0,29 3,0 9 2,05 8,62 2,12 3,28 0,25 4,0 2,46 0,26 3,0 10 2,50 7,77 1,27 3,64 0,23 4,0 2,73 0,23 3,0 r - bán kính; φ - góc tới; β - góc đặt cánh (góc giữa dây cung profil và mặt phẳng quay cánh); λ - là tỉ số vận tốc mút cánh; C – chiều dài dây cung profil cánh. Một trong những ứng dụng phổ biến của động cơ gió vào sản xuất và phục vụ đời sống dân sinh là sử dụng trực tiếp năng lượng cơ học của tuabin gió để chạy máy bơm nước. Trong trường hợp này, số cánh của tuabin gió thay đổi từ vài chục cánh ứng với những tuabin gió tốc độ thấp ứng KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 73 (3/2021) 58 dụng trong việc khai thác nước ngầm đến các tuabin gió có số cánh phù hợp để kéo máy phát điện bắt đầu từ 3 cánh đến một cánh. Về mặt khí động học thì số cánh ít sẽ có tổn thất khí động ít hơn nhưng lại nảy sinh nhiều vấn đề khác như khả năng cân bằng và dao động của cánh. Trong nghiên cứu này, động cơ gió của nghiên cứu là loại động cơ gió trục ngang công suất nhỏ (1÷3)kW với số lá cánh là Ztb= 4 và 6. Các kết quả cho dưới Bảng. Bảng cho thấy các thông số động học của lá cánh bánh công tác trong hai trường hợp Ztb = 4 và Ztb = 6 sai khác nhau không nhiều, đặc biệt, góc tấn và góc đặt cánh trong hai trường hợp này là như nhau. Chính vì vậy, về nguyên tắc có thể sử dụng tùy ý trường hợp Ztb = 4 lá cánh và trường hợp Ztb= 6 lá cánh để nghiên cứu. Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng bắt đầu làm việc với vận tốc gió thấp (vận tốc gió khởi động), tác giả lựa chọn phương án Ztb = 6 để nghiên cứu tiếp theo. Trên thực tế, số lá cánh tuabin gió sẽ được lựa chọn theo tốc độ gió và số vòng quay của trục tuabin gió. Điều đó có nghĩa là, tùy thuộc vào số vòng quay của trục ra của tuabin gió hoặc của đối tượng công tác (cụ thể ở đây là bơm ly tâm cột áp thấp, lưu lượng nhỏ) để quyết định số cánh bánh công tác của tuabin gió mà không liên quan đến số lá cánh bánh công tác của bơm. 4.3 Kết quả thử nghiệm hệ thống máy bơm ly tâm cột nước thấp chạy bằng động cơ gió Cánh đồng muối Nghĩa Phú, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định được lựa chọn để thử nghiệm có các điều kiện gió phù hợp với địa điểm được ứng dụng sau này của nghiên cứu. Đối với máy bơm của nghiên cứu, lưu lượng thuộc cỡ nhỏ Q = (10÷15)m3/h, do đó, nghiên cứu sử dụng phương pháp đo lưu lượng theo nguyên lý chiếm chỗ. Cột áp bơm H=(1÷1,5)m được đo bằng phương pháp đo trực tiếp theo thực tế dòng chảy qua máy bơm. Thiết bị đo tốc độ gió cầm tay GM – 8901, thiết bị đo số vòng quay laser không tiếp xúc đạt chuẩn EU. Thời gian lấy mẫu 0,5s (trên 120 vòng/phút). Sơ đồ lắp đặt thí nghiệm được thể hiện trên Hình 7. Hình 7. Sơ đồ lắp đặt hệ thống máy bơm ly tâm – tuabin gió tại xã Nghĩa Phú - huyện Nghĩa Hưng – tỉnh Nam Định (1.Cống điều tiết nước biển, 2. Hệ thống tuabin gió, 3. Bơm ly tâm) Đối với tổ máy tuabin gió – bơm ly tâm, đường đặc tính được thể hiện thông qua hai phần: Đường đặc tính thể hiện mối quan hệ giữa vận tốc gió (V) và công suất tuabin gió (P) Đường đặc tính thể hiện của máy bơm: Ntr(Q); H (Q) và η(Q). Các kết quả cho trên Hình 8, Hình 9 và Hình 10. Khác với các tổ máy bơm làm việc với động cơ điện có công suất và số vòng quay cố định, những máy bơm trong chế độ này có các thông số kỹ thuật gồm lưu lượng (Q), cột áp (H), hiệu suất có mối KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 73 (3/2021) 59 quan hệ chặt chẽ với nhau. Nghĩa là, với công suất Ntr cố định thì khi Q tăng, H sẽ giảm và sẽ tồn tại điểm làm việc ở đó cho hiệu suất cao nhất (điểm làm việc tối ưu). Tuy nhiên, đối với máy bơm chạy bằng năng lượng gió, mối quan hệ này không bị giàng buộc bởi vì công suất của máy bơm (thông qua công suất động cơ gió) sẽ thay đổi khi vận tốc gió thay đổi. Vận tốc gió tăng, công suất động cơ gió sẽ tăng và ngược lại (Hình 8). Như vậy, với mỗi trị số của vận tốc gió, bơm sẽ làm việc ở một công suất tương ứng. Do đó, đường đặc tính của bơm H(Q), Ntr(Q), η(Q) (Hình 9 và Hình 10) thực chất là đường quan hệ chỉ ra sự thay đổi của các thông số kỹ thuật của bơm trong điều kiện vận tốc gió thay đổi (hay công suất thay đổi). Hình 8. Biểu đồ quan hệ P(V) của tuabin gió Hình 9. Đường đặc tính H(Q) và Ntr (Q) của máy bơm ly tâm Hình 10. Đường đặc tính η(Q) máy bơm ly tâm Hình 9 trình bày mối quan hệ Ntr(Q) cho thấy khi Q tăng thì Ntr cũng tăng. Với các giá trị công suất trên trục của tuabin Ntr đạt được khác nhau (do tuabin gió tạo ra theo từng trị số vận tốc gió), máy bơm sẽ có điểm làm việc khác nhau. Hình 10 trình bày mối quan hệ η(Q) cho thấy máy bơm của nghiên cứu phù hợp với điều kiện làm việc với cột nước thấp. Khi cột nước càng cao (H), lưu lượng càng lớn (Q) thì hiệu suất bơm càng giảm. Kết quả thử nghiệm trong bảng 4 cũng khẳng định rằng, máy bơm của đề tài phù hợp với điều kiện làm việc với các thông số kỹ thuật: H =(1,1÷1,75)m, Q =(15÷42)m3/h, hiệu suất máy bơm đạt ηb = (27÷60)%, tốc độ gió V= (3÷7)m/s. Với thông số này, máy bơm của nghiên cứu hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu đề ra, nghĩa là, tổ máy tuabin gió – máy bơm ly tâm cột áp thấp đảm bảo các thông số kỹ thuật, hoàn toàn đủ điều kiện để ứng dụng vào thực tế sản xuất muối theo quy mô hợp tác xã, các xí nghiệp sản xuất vừa và nhỏ. KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 73 (3/2021) 60 Bảng 4. Bảng thông số thử nghiệm tổ máy tuabin gió – máy bơm ly tâm 5. KẾT LUẬN Bài báo đã phân tích và lựa chọn được số cánh bơm và số cánh của động cơ gió cho tổ máy tuabin gió – máy bơm ly tâm cột áp thấp đảm bảo khả năng cung cấp nước mặn cho diện tích ruộng muối F=(1÷2) ha. Kết quả đã tính toán và xác định được số cánh bơm là 5 và số cánh động cơ tuabin là 6 cho hiệu suất tổ máy là lớn nhất. Các kết quả sau đó đã được kiểm chứng thực nghiệm tại hiện trường cho thấy máy bơm thiết kế đạt được các thông số bao gồm: H =(1,1÷1,75)m, Q=(15÷42)m3/h, hiệu suất máy bơm đạt ηb = (27÷60)%, tốc độ gió V= (3÷7)m/s. Lần đầu tiên ở Việt Nam đã tự thiết kế, chế tạo được máy bơm ly tâm cột áp thấp sử dụng động cơ gió, phục vụ bơm nước biển cho sản xuất muối. Tổ máy này đã được triển khai lắp đặt vào thực tế sản xuất tại xí nghiệp muối xuất khẩu Hòn Khói (Khánh Hòa) để phục vụ công đoạn bơm nước mặn lên ô bay hơi từ kênh dẫn nước. Tuy nhiên, nghiên cứu này vẫn còn mới ở Việt Nam, cần có thêm những nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa để chúng ta có thể hoàn toàn làm chủ được công nghệ thiết kế, đặc biệt là các vấn đề kỹ thuật về biên dạng lá cánh bánh công tác và kết cấu máy bơm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn, Tuấn Minh, et al., et al. Nghiên cứu thiết kế, chế tạo và lắp đặt hệ thống máy bơm nước mặn sử dụng năng lượng gió phục vụ sản xuất muối cho vùng ven biển. Hà Nội : Đề tài cấp bộ, 2020. Sujoy Chakraborty, K.M. Pandey, Bidesh Roya. Numerical Analysis on Effects of Blade Number Variations on Performance of Centrifugal Pumps with Various Rotational Speeds. 2012, International Journal of Current Engineering and Technology, pp. ISSN 2277 - 4106. Liu Houlin, Wang Yong, Yuan Shouqi, Tan Minggao. Effects of Blade Number on Characteristics of Centrifugal Pumps.. Jan-March 2012, Journal of Environmental Research And Development, pp. 863-867. K.M.Pandey, S.Chakraborty and. Numerical Studies on Effects of Blade Number Variations. International Journal of Engineering and Technology, Vol.3, No.4, August 2011, pp. 410-416. KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 73 (3/2021) 61 Nguyễn, Mịch Thế. Nghiên cứu thiết kế và chế tạo hệ thống tua bin gió kiểu trục ngang có công suất trong dải từ 15-20kW. Hà Nội : sn, 2014. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước. Trịnh, Chất en Lê, Uyển. Tính toán thiết kế hệ thống dẫn động cơ khí . Hà Nội : NXB Giáo dục , 2006. Nguyễn, Ngọc. Điện gió. Hà Nội : Nhà xuất bản Lao Động, 2012. Massinissa, Djerroud, Guyh, Ngoma Dituba en Walid, Ghie. Numerical identification of key design parameters enhancingthe centrifugal pump performance: impeller,impeller-volute, and impeller- diffuser. 2011, ISRN Mechanical Engineering, pp. 1-16. Lê, Liên Danh. Tính toán thiết kế bánh công tác của bơm ly tâm. Bơm, quạt cánh dẫn. Hà Nội : Nhà xuât bản Bách Khoa, Hà Nội, 2011, pp. 120-130. Sanjay, V Jain, et al., et al. Effects of impeller diameter and rotational speed on performance. 2014, Energy Conversion and Management. Abstract: STUDYING AND SELECTING THE BLADES NUMBER OF THE CENTRIFUGAL PUMP WITH LOW HEAD AND THE WIND ENGINE FOR A SYSTEM OF PUMP USING WIND TURBINE TO PRODUCE SALT FOR COASTAL AREAS This paper focuses on analyzing the effects of the number of blades of pump and wind engine on the hydraulic characteristics of a centrifugal pump using engine wind (LTM 15 – 1,2kW), which is used for pumping the seawater to produce salt. This is a new model that was installed and applied in Hon Khoi (Khanh Hoa). Five options of the number of pump blades including 2,3,4,5 and 6 and two options of the number of wind turbine blades, 4 and 6 were investigated. The results show that the number of pump and wind turbine blades are 5 and 6 respectively for the maximum efficiency and this system ensures the ability to provide seawater for the salt field with area F=(1÷2)ha. Then, the results are verified experimentally. The pump–wind turbine system has parameters: head H=(1,1 ÷1,75)m, rate Q =(15÷42)m3/h, efficiency ηb =(27÷60)%, wind speed V = (3 ÷ 7) m/s. Keywords: Pump, Turbine, number of blades. Ngày nhận bài: 17/12/2020 Ngày chấp nhận đăng: 19/3/2021
File đính kèm:
- nghien_cuu_lua_chon_so_la_canh_may_bom_ly_tam_cot_ap_thap_va.pdf