Nghiên cứu doanh nghiệp học thuật Spin-offs từ các trường đại học trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam
Bnghiệp này từ các cơ sở giáo dục đại học ở một số quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở tổng quan các ài báo tập trung nghiên cứu về các công ty Spin-offs và các chính sách hỗ trợ phát triển doanh
nghiên cứu học thuật đã công bố và kết quả nghiên cứu thực trạng tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam,
bài viết đưa ra các vấn đề cần quan tâm về chính sách và cải cách thể chế đối với giáo dục đại học Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh yêu cầu cải cách thể chế và môi trường cho phát triển doanh nghiệp từ các trường đại học thì tự chủ toàn diện cho các trường để đổi mới tổ chức, khuyến khích khởi nghiệp và thúc đẩy hoạt động thương mại hóa là một vấn đề cấp bách được đặt ra.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu doanh nghiệp học thuật Spin-offs từ các trường đại học trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam
i học Việt Nam Kinh nghiệm thành công từ các quốc gia cho thấy: để các Spin-offs từ trường ĐH hình thành và hoạt động hiệu quả, ngoài sự chủ động của các cơ sở này và tinh thần khởi nghiệp của các nhà khoa học - doanh nhân học thuật (vốn đã được hình thành trong 173 ? Sè 149 + 150/2021 Ý KIẾN TRAO ĐỔI thương mại khoa học ?thể chế tự chủ đại học) thì chính sách của chính phủ và các địa phương đóng vai trò quyết định. Vai trò của chính sách thể hiện ở sự đổi mới về thể chế tạo môi trường khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo và thúc đẩy các hoạt động chuyển giao, thương mại hóa kết quả NCKH và phát triển công nghệ từ các trường đại học (Đinh Văn Toàn, 2020a). Tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu mới công bố gần đây về doanh nghiệp trong các CSGDĐH cho thấy: đối với các trường ĐH công lập mới chỉ có mô hình doanh nghiệp nhà nước đang phổ biến; trong khi các trường tư thục chưa quan tâm vấn đề này. Số liệu chính thức về doanh nghiệp Spin-offs từ các trường ĐH hiện nay chưa có. Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu Đại học Quốc gia Hà Nội đối với 120 CSGDĐH (trong đó chỉ có 43 phản hồi) trong năm 2018 cho thấy: trong giai đoạn 2000-2016 không có trường đại học nào thành công trong thành lập mới doanh nghiệp. Đại học Quốc gia Hà Nội thành lập hai doanh nghiệp theo mô hình công ty cổ phần vào các năm 2015, 2017 nhưng tới cuối năm 2018 đều dừng hoạt động. Nguyên nhân là sự xung đột về cơ chế sử dụng tài sản, vốn và các vướng mắc trong quản lý các công ty có nguồn lực từ nhà nước nhưng chưa có các hướng dẫn pháp lý phù hợp. Đặc biệt đáng tiếc là các lĩnh vực mà hai công ty này hoạt động (tư vấn chuyển giao công nghệ, vi sinh vật và công nghệ sinh học) có tiềm năng phát triển sản phẩm và thương mại hóa. Nghiên cứu này cũng cho thấy mặc dù đã có sự chuyển đổi về hình thức tổ chức, mô hình doanh nghiệp và cơ chế hoạt động để thích nghi theo thị trường nhưng các doanh nghiệp vẫn giữ cơ chế quản trị và điều hành theo lối hành hính để phù hợp với điều kiện hoạt động trong đơn vị công lập (Đinh Văn Toàn, 2019). Bên cạnh nhiều cản trở về cơ chế hoạt động doanh nghiệp hình thành từ CSGDĐH như nêu trên, thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các trường ĐH còn hạn chế (Đinh Văn Toàn, 2020b). Các hạn chế này cùng với bất cập trong quản trị nhà trường dẫn đến chưa tạo môi trường khởi nghiệp học thuật và chưa phát huy được vai trò các bên trong phát triển dự án kinh doanh, thúc đẩy hình thành và phát triển các công ty Spin-offs. Kết quả phỏng vấn bán cấu trúc một số lãnh đạo cấp trường và cấp khoa dựa trên mô hình các nhân tố thể chế ảnh hưởng đến hoạt động chuyển giao và tham gia kinh doanh trong năm 2019 của tác giả cho thấy: bên cạnh các nhân tố kể trên còn có sự thiếu đồng bộ về cơ chế theo hướng khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo (Đinh Văn Toàn, 2020c). Đặc biệt, các chính sách và cơ chế về tổ chức và bộ máy trường ĐH chậm được cải tiến cũng sẽ tiếp tục là các rào cản để chuyển đổi sang mô hình trường đại học khởi nghiệp (Dinh Van Toan, 2020). Từ kinh nghiệm của các quốc gia và thực trạng quản lý các CSGDĐH ở Việt Nam như nêu trên, các vấn đề đặt ra đối với Chính phủ và các Bộ là: Thứ nhất, Việt Nam cần sự đồng bộ về thể chế và cơ chế thuận lợi để thúc đẩy chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ các CSGDĐH. Hệ thống luật pháp cần cho phép các trường đại học được sở hữu và toàn quyền sử dụng quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ của các sản phẩm nghiên cứu từ tiền Nhà nước tài trợ. Cơ chế thực hiện đăng ký, xác lập quyền sở hữu và quản lý, đặc biệt về sử dụng, khai thác và phân chia lợi ích đối với các tài sản trí tuệ của đề tài, dự án nghiên cứu cần được cải tiến theo hướng dễ ứng dụng (hiện nay Luật Sở hữu trí tuệ quy định: tất cả các tài sản trí tuệ phát sinh sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà nước; tỷ lệ quyền sở hữu đối với từng đối tượng do các bên đầu tư quyết định bằng văn bản trên cơ sở đề xuất của chủ nhiệm đề tài, dự án và nhóm thực hiện có sự thỏa thuận bằng văn bản của cơ quan chủ trì, cơ quan đặt hàng, cơ quan sử dụng kết quả nghiên cứu, các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác). Các cơ quan quản lý cần có hướng dẫn áp dụng rõ ràng, nới lỏng và đơn giản hóa về thủ tục mua bán, nhượng quyền trên cơ sở tin cậy giữa các bên để các nhà khoa học có động lực tham gia quá trình thương mại hóa các sản phẩm của mình và nhà trường. Bên cạnh đó, các cơ chế hỗ trợ khác cần được áp dụng như ở một số quốc gia (Mỹ, Vương Quốc Anh) để thúc đẩy hợp tác trong R&D giữa các trường đại học với các doanh nghiệp và tư nhân để hình thành các liên doanh, tiến tới công ty Spin-offs. Thứ hai, cần tháo gỡ về luật pháp và có các chính sách đặc biệt hỗ trợ hình thành và phát triển doanh nghiệp Spin-offs trong các CSGDĐH. Theo đó, cần gỡ bỏ quy định không cho phép công chức, viên chức, giảng viên trong các trường ĐH công lập thành lập hoặc tham gia quản lý các doanh nghiệp trong các bộ luật hiện hành (Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức). Cần khuyến khích các nhà khoa học trong các cơ sở này vừa tham gia nghiên cứu, giảng dạy vừa tham gia hoạt động chuyển giao tri thức, tư vấn và thương mại hóa sản phẩn ra thị trường trong các Spin-offs Sè 149 + 150/2021174 Ý KIẾN TRAO ĐỔI thương mại khoa học đã thành lập. Đồng thời, chính phủ và Bộ Tài chính cần quy định rõ ràng để các CSGDĐH triển khai định giá, đóng góp vốn và chuyển nhượng cổ phần từ các nguồn lực của mình như: quyền sử dụng đất, thương hiệu, tài sản trí tuệ trong hình thành doanh nghiệp. Các hoạt động kinh doanh tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp và các cơ chế rõ ràng sẽ đảm bảo được quyền lợi của các bên liên quan, trong đó có Nhà nước, CSGDĐH, nhà đầu tư và các nhà khoa học. Thứ ba, Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ cần có chính sách hình thành các nguồn vốn và thiết lập cơ chế, chính sách sử dụng vốn “mồi” như Thổ Nhĩ Kỳ và một số quốc gia đã thực hiện cho các doanh nhân học thuật bước đầu phát triển sản phẩm, mô hình kinh doanh. Chính sách và các cơ chế này rất quan trọng để các nhà đầu tư cá nhân, các nhà đầu tư “thiên thần” (thường là các chuyên gia/doanh nhân đã thành công), các quỹ đầu tư mạo hiểm quan tâm tham gia ngay từ khi hình thành liên doanh và giúp các Spin-offs đứng vững trong giai đoạn đầu. Thứ tư, Chính phủ, Bộ Giáo dục và đào tạo cần giao quyền tự chủ hoàn toàn về mặt tổ chức, nhân sự để các trường đại học: i) Xây dựng các chính sách khuyến khích tinh thần doanh nhân trong giảng viên, nghiên cứu viên, tạo động lực để các nhà nghiên cứu tham gia hoạt động đổi mới, sáng tạo và hoạt động của các Spin-offs; ii) Khuyến khích các nhà khoa học, giảng viên và người học tham gia các hoạt động khởi nghiệp và thành lập doanh nghiệp để thương mại hóa sản phẩm NCKH; iii) Có chính sách và thành lập đơn vị hỗ trợ việc tạo ra các dự án kinh doanh mới từ các nghiên cứu và công nghệ bắt nguồn từ nhà trường hoặc có các cán bộ, giảng viên, sinh viên tham gia như: văn phòng cấp phép, văn phòng chuyển giao công nghệ, văn phòng hỗ trợ các dự án kinh doanh mới, ; iv) Có cơ chế để các doanh nhân học thuật được tiếp cận, sử dụng các phòng thí nghiệm nghiên cứu để triển khai các dự án mang tính khởi nghiệp kinh doanh; v) Đặc biệt, một trong những đơn vị có vai trò quan trọng trong quy trình thương mại hóa và hình thành các công ty Spin-offs là các vườn ươm doanh nghiệp cần được các trường chủ động thành lập. 6. Kết luận Kinh nghiệm về chính sách và sáng kiến của các quốc gia trên khắp thế giới cũng như kết quả phát triển các doanh nghiệp Spin-offs là minh chứng sống động cho xu hướng đổi mới trường ĐH gắn với khởi nghiệp và thương mại hóa trong hơn hai thập niên vừa qua. Trong số các quốc gia đã đề cập, một số có nền giáo dục đại học phát triển từ lâu theo hướng tự chủ đại học như Mỹ, Anh và một số nước Tây Âu, nhưng cũng có nhiều trường ĐH ở Châu Á, Bắc Âu và Châu Mỹ. Các quốc gia như Mỹ, Anh, Canada và một số nước tiêu biểu ở khu vực Châu Á như Nhật Bản, Singapore đã gặt hái nhiều thành công từ đổi mới chính sách và sự hợp tác hiệu quả giữa các bên: trường đại học - chính phủ - doanh nghiệp. Trong đó, chính phủ có vai trò xây dựng khung khổ thể chế và các chính sách, đồng thời tạo các cơ chế thu hút đầu tư, hợp tác và sử dụng hiệu quả nguồn lực từ tổ chức mẹ là trường ĐH để phát triển kinh doanh cho các Spin-offs. Chính điều này tạo động lực cho chuyển giao, thương mại hóa và thúc đẩy hoạt động đổi mới, sáng tạo trong mô hình trường đại học khởi nghiệp. Việt Nam đang trong bối cảnh của nền kinh tế chuyển đổi, các CSGDĐH chủ yếu hoạt động theo mô hình trường ĐH truyền thống, ít quan tâm đến chuyển giao và thương mại hóa. Theo xu thế chung của thế giới, các trường đại học Việt Nam cũng đang trong giai đoạn chuyển đổi sang mô hình trường đại học khởi nghiệp. Tuy nhiên, kết quả hình thành và phát triển doanh nghiệp nói chung và công ty Spin- off nói riêng trong các trường đại học còn rất hạn chế. Hệ thống thiết chế, các quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa khuyến khích và hỗ trợ để các cán bộ giảng viên và CSGDĐH hình thành dự án kinh doanh và thành lập doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn thiếu các cơ chế hỗ trợ việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp hợp tác với nhà trường. Vì vậy, các vấn đề đặt ra hiện nay trước hết là hoàn thiện thể chế và cơ chế để thúc đẩy chuyển giao công nghệ để thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ các CSGDĐH. Cần cho phép trường đại học sở hữu các tài sản trí tuệ từ các sản phẩm nghiên cứu do Nhà nước tài trợ. Cần gỡ bỏ quy định không cho phép công chức, viên chức, giảng viên trong các trường đại học công lập tham gia quản lý các doanh nghiệp trong các bộ luật hiện hành, đồng thời thiết lập nguồn và cơ chế hỗ trợ đầu tư vốn cho các công ty Spin-offs từ CSGDĐH. Cuối cùng, đối với các trường ĐH hiện nay thì thiết chế và cơ cấu quản trị để hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng khởi nghiệp, thúc đẩy đổi mới và sáng tạo là hết sức cấp bách. Để làm được điều này cần hoàn thiện và đồng bộ hóa các chính sách và thể chế quản lý giáo dục đại học. Nhưng trường đại học chưa thực sự tự chủ trong quyết định cơ cấu tổ chức, nhân sự và các hoạt động là một nút thắt cần 175 ? Sè 149 + 150/2021 Ý KIẾN TRAO ĐỔI thương mại khoa học được tháo gỡ ngay để các trường cải tiến mô hình quản trị, cơ cấu tổ chức và thực hiện được các chính sách, các cơ chế ưu đãi cho khởi nghiệp, hình thành doanh nghiệp dựa trên công nghệ từ nhà trường.u Tài liệu tham khảo: 1. Boffo, S. và Cocorullo, A. (2019), University Fourth Mission, Spin-offs and Academic Entrepreneurship: Connecting public policies with new missions and management issues of universi- ties, Paper presented at the Higher Education Forum, Vol. 16 (2019) 125-142. https://www.acade- mia.edu/38694807/ (accessed 6 August 2020). 2. Borges, C., Filion, L. J. (2013), Spin-off Process and the Development of Academic Entrepreneur’s Social Capital, Journal of Technology Management & Innovation, Vol.8, Issue 1, Mar. 2013. 27242013000100003. 3. Callan, B. (2001), Generating Spin-offs: Evidence From Across The OECD, Special Issue on Fostering High-tech Spin-offs: A Public Strategy for Innovation, OECD, Science Techonology Industry Review, No.26, tr.13-55. https://doi.org/ 10.1787/sti_rev-v2000-1-en. 4. Đinh Văn Toàn (2019), Phát triển doanh nghiệp trong các cơ sở giáo dục đại học: Từ kinh nghiệm quốc tế đến thực tiễn Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản ĐHQGHN, 133-261. 5. Dinh Van Toan (2020), Entrepreneurial Universities and the Development Model for Public Universities in Vietnam, International Journal of Entrepreneurship, 24 (1) (2020). https://www.aba- cademies.org/articles/Entrepreneurial-universities- the-development-model-for-public-universities-in- vietnam-24-1.pdf 6. Erden, Y., Yurtseven, A.E. (2012), Establishment and Development of Academic Spin - Off Firms: Evidence from Turkey, https://www.researchgate.net/publication/25442900 7_Establishment_and_Development_of_Academic _Spin_Off_Firms_by_Evidence_from_Turkey_and _Some_Policy_Recommendations 7. Isabelle, D. A. (2014), Capitalization of sci- ence and technology knowledge: Practices, trends and impacts on techno-entrepreneurship, in: Handbook of Research on Techno-entrepreneurship, 2nd Ed., Edward Elgar Publishing, 2014. https://doi.org/10.4337/9781781951828.00009. 8. Ndonzuau, F.N., Pirnay, F., Surlemont, B. (2002), A stage model of academic spin-off creation, Technovation, Vol. 22, Issue 5 (2002) 281-289. https://doi.org/10.1016/S0166-4972(01)00019-0 9. Pattnaik, P.N. và Pandey, S.C. (2014), University Spinoffs: What, Why, and How?, Technology Innovation Management Review, December 2014, 44-50. https://timreview.ca/sites/ default/files/article_PDF/PattnaikPandey_TIMRevi ew_December2014.pdf (truy cập ngày 18/8/2020). 10. Pirnay, F., Surlemont, B. và Nlemvo, F. (2003), Toward a typology of university spin-offs, Small Business Economics, 21 (2003) pp. 355-369. https://doi.org/10.1023/A:1026167105153. 11. Rasmussen, E. (2008), Government instru- ments to support the commercialization of university research: Lessons from Canada, Technovation, Sciencedirect, Volume 28, Issue 8, 473-550, https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S 0166497207001526. 12. Saetre, A. S., Wiggins, J., Atkinson, O. T., Atkinson, B.K.E. (2009), University Spin-Offs as Technology Transfer: A Comparative Study among Norway, the United States, and Sweden, Comparative Technology Transfer and Society, Vol.7, No.2, 115-145. Johns Hopkins University Press. https://doi.org/10.1353/ctt.0.0036. 13. Stal, E., Andreassi, T., Fujino, A. (2016), The role of university incubators in stimulating academ- ic entrepreneurship, Revista de Administracão e Inovacão, São Paulo, 13(2), 27-47. Summary The paper focuses on Spin-offs companies from higher education institutions and development sup- port policies in several countries around the world. On the basis of an overview of published academic studies and the results of research on the current sit- uation in Vietnamese higher education institutions, this article raises issues of concern about policy and institutional reform for higher education in the cur- rent context. In addition to the requirements of insti- tutional reform and the environment for business development from universities, comprehensive autonomy for schools to innovate organizations, encourage entrepreneurship and promote commer- cialization are urgent problems are in place. Sè 149 + 150/2021176 Ý KIẾN TRAO ĐỔI thương mại khoa học
File đính kèm:
- nghien_cuu_doanh_nghiep_hoc_thuat_spin_offs_tu_cac_truong_da.pdf