Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam

1. Đặt vấn đề

“Officetel” là một từ tiếng anh được kết hợp giữa hai từ tiếng anh “Office” và

“Hotel”. “Office” nghĩa là văn phòng làm việc và từ “Hotel” nghĩa là nơi lưu trú qua

đêm. Ở Việt Nam chưa có khái niệm chính thức về Officetel, nhưng có thể tạm dịch

là văn phòng kết hợp với lưu trú (VPKHLT).

Trên thế giới VPKHLT được bố trí thành các căn riêng biệt tương tự như các căn

hộ trong nhà chung cư nhưng có thêm tính năng sử dụng làm văn phòng làm việc.

VPKHLTthường được thiết kế và sử dụng nằm trong nhà chung cư hỗn hợp hoặc

độc lập, có các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho một hay nhiều cá nhân làm việc

văn phòng và kết hợp với lưu trú qua đêm.

VPKHLTcó ưu điểm nổi bật là tiết kiệm chi phí thuê mặt bằng và các chi phí khác

trong quá trình vận hành, thích hợp với những người bận rộn, có thể sử dụng đây là

nơi làm việc và dùng để nghỉ qua đêm luôn tại văn phòng. Loại hình này chủ yếu tập

trung tại các thành phố lớn, đông dân cư, điều kiện kinh tế xã hội phát triển.

Tại Hàn Quốc [1] VPKHLT có nguồn gốc từ văn phòng. Họ giữ lại nhiều đặc điểm

của các tòa nhà văn phòng, như mô hình phân phối, kỹ thuật xây dựng, thiết kế mặt

tiền và vật liệu. Các dự án gần đây phát triển theo hướng hoàn toàn cho chức năng

ở, nhưng thiết kế của VPKHLT và việc sử dụng thực tế của nó vẫn khá linh hoạt.

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 2520
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam

Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản văn phòng kết hợp với lưu trú tại Việt Nam
, từng công trình riêng biệt.
nhiều. Về bản chất, CDIO là một giải pháp nâng cao chất 2.3 Xu hướng phát triển của thiết kế, thi công xây dựng công 
lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu xã hội (XH) trên cơ sở xác trình.
định chuẩn đầu ra, từ đó thiết kế chương trình và kế hoạch 
đào tạo. Quy trình này được xây dựng một cách khoa học, - Thiết kế chuyên sâu, chuyên nghiệp, chuyên môn hoá
hợp lý, logic, có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực đào tạo khác Xu thế chung của thế giới đang và đang diễn ra là chuyên 
nhau. sâu, chuyên nghiệp và chuyên môn hoá trong thiết kế kiến 
 Theo mô hình CDIO, chuẩn đầu ra cho học phần Cấu tạo trúc, bản thân một tổ chức thiết kế không muốn và cũng 
kiến trúc trong chương trình đào tạo Kiến trúc sư cần được không thể ôm đồm quá nhiều phần việc trong quy trình thiết 
xác định như sau: kế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Vì vậy, hiện nay trên thế 
 giới hình thành nên các tổ chức thiết kế có sự phân tách rõ 
 - Về Kiến thức: ràng về vai trò chuyên môn- nó như đa khoa và chuyên khoa 
 Sinh viên có thể hiểu được các thuật ngữ, khái niệm, trong nghề bác sĩ, ngay cả ở Việt nam cũng không khó để 
chức năng, yêu cầu kỹ thuật và nguyên tắc thiết kế các bộ thấy những tổ chức thiết kế như vậy.
phận chính của công trình kiến trúc. Bản thân trong trường Đại học Kiến trúc Hà nội, từ những 
 Sinh viên có khả năng nhận biết về ý nghĩa, vai trò và thập niên 90 của thế kỷ trước cũng đã dần phân tách các 
đưa ra các giải pháp về cấu tạo của các bộ phận công trình. chuyên ngành chuyên sâu trong đào tạo, và hiện nay xu thế 
Qua đó sẽ thể hiện được cấu trúc công trình và các bộ phận đó ngày càng thấy rõ và quyết liệt hơn nhằm đáp ứng nhu 
phục vụ cho sáng tác kiến trúc và triển khai các bản vẽ kỹ cầu và bối cảnh hoạt động nghề thực tế.
thuật về công trình. - Công nghệ, vật liệu xây dựng, phương thức thi công
 - Về Kỹ năng: Sự biến đổi phát triển mạnh mẽ của công nghệ- vật liệu 
 Môn học cho sinh viên cơ hội rèn kĩ năng Nhớ các thuật xây dựng và phương thức thi công có ảnh hưởng rất lớn đến 
ngữ và khái niệm về cấu trúc, thành phần công trình kiến việc đào tạo kiến trúc sư- những người khi ra trường phải 
trúc, Hiểu các phương pháp để tiếp cận phân tích, sáng tạo hoà nhập vào hệ thống vận hành và phát triển của nó.
và đề xuất giải pháp và Áp dụng chúng trong một công trình Công nghệ xây dựng- vật liệu và phương thức thi công 
thực tế do sinh viên tự đề xuất. luôn thay đổi theo hướng ngày càng hiện đại, rộng và sâu về 
 Sinh viên có khả năng thể hiện bản vẽ và ghi chú bằng chuyên môn, dần hướng tới tính chia tách thành nhiều phạm 
tiếng Anh (như bản vẽ quốc tế), có khả năng giao tiếp sử vi và mức độ, và trong số đó có thể nằm ngoài khả năng giải 
94 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG
quyết trọn vẹn vấn đề của một kiến trúc sư. Đơn cử như Không phủ nhận giá trị mang lại của việc trải nghiệm thực 
người viết bài này phải thiết kế vách kính dựng bao ngoài hành theo lối vẽ bài, nhưng với bối cảnh hiện nay, việc tăng 
cho một ngôi nhà 22 tầng, việc đầu tiên là kết nối với một cường các bài sưu tầm đánh giá là việc cần làm. Thực chất 
đơn vị uy tín, chuyên nghiệp và có kinh nghiệm về kính vách việc này bám sát một cách căn bản các cấp độ trong thang 
dựng, trao đổi phác thảo và đề xuất của người thiết kế, sau nhận thức Bloom và cho sinh viên thu nhận được lượng 
đó lựa chọn thoả hiệp phương án tiếp cận tối ưu do họ đề thông tin lớn cả về chiều rộng và chiều sâu cũng như tính 
xuất lại, và họ sẽ hoàn thiện dần bản vẽ thi công theo sự phối thực tế của những thông tin ấy.
hợp năng lực của cả hai phía- người đề xuất (kiến trúc sư) và Họ làm cái gì? Họ làm thế nào? Tại sao họ làm thế? Có 
người có chuyên môn sâu đưa ra giải pháp và hoàn thiện nó. cách nào khác hay hơn không?... và cuối cùng đương nhiên 
 sẽ là sự sáng tạo, hoặc mầm mống của sự sáng tạo- cái mà 
3. Những vấn đề cần nghiên cứu để đổi mới nội dung 
 mục đích của trường đại học luôn phải hướng tới, và các 
và phương pháp giảng dạy học phần cấu tạo kiến trúc
 Kiến trúc sư cần phải đạt được.
 - Xu hướng dạy học- nghiên cứu theo vấn đề
 - Xu hướng phân tách giai kỳ
 Dạy học dựa trên vấn đề (Problem- Based Learning) là 
hoạt động dạy học trong bối cảnh thực tiễn nhằm cung cấp Như đã nêu ở phần đầu, các sinh viên tiếp cận môn học 
kỹ năng giải quyết vấn đề tăng cường năng lực tự học và khả vào đầu học kỳ 3- tức là vừa bước qua năm thứ nhất, chưa 
năng làm việc nhóm. Các vấn đề có liên quan đến thực tiễn thể nói là họ đủ năng lực để thẩm thấu được những kiến trức 
được lựa chọn cẩn thận và được sử dụng làm nền tảng cho của môn học được coi là môn chuyên ngành và cốt lõi trong 
chương trình học. Nó giúp người học tiếp nhận tri thức và kỹ hành trang của một kiến trúc sư. Bản thân giảng viên cũng 
năng thông qua một quá trình học- hỏi. bối rối khi mà nêu ra các vấn đề trong bài giảng ở một mức 
 độ được cho là cần thiết, nhưng họ gần như tự nêu tự giải 
 Xu hướng này cho tới giờ được ứng dụng rộng rãi trong quyết, vì cấu tạo kiến trúc đòi hỏi dần sâu và rộng, đi suốt 
cả dạy học phổ thông chứ không nói là trong đào tạo bậc đại quãng đời hành nghề của kiến trúc sư- mà các sinh viên chỉ 
học, nó rèn luyện những tư duy và kỹ năng giải quyết một như người ngồi xem, khó tiếp cận và hoà mình với bài giảng 
hay nhóm vấn đề một cách tổng hợp, đòi hỏi sự đa dạng về của giảng viên.
kiến thức tổng hợp và khả năng tìm kiếm, chắt lọc nhưng 
kiến thức đó, dần loại trừ tính phiến diện trong giải quyết vấn Phần đầu mang tính đại cương và phần sau mang tính 
đề- để có được những kết quản tối ưu và đúng đắn nhất. đi sâu hơn, cụ thể giai kỳ đầu là vào cuối học kỳ 2 hoặc đầu 
 học kỳ 3, khi mà bắt đầu học đồ án đầu tiên, giai kỳ sau vào 
 - Xu hướng giảng dạy nguyên lý cuối học kỳ 5 hoặc đầu học kỳ 6, khi mà sinh viên đã trải qua 
 Nguyên lý hay nguyên tắc (principle) là những ý tưởng 4 đến 5 đồ án. Mục đích cũng là hướng tới tính hiệu quả của 
hoặc lý thuyết ban đầu, quan trọng, được coi là xuất phát môn học. Nhưng có ý kiến cho rằng “phải học rồi mới vẽ 
điểm cho việc xây dựng những lý thuyết khác. Thực ra xu được”, điều này hoàn toàn đúng, nhưng cũng phải nghĩ theo 
hướng này đã được gắn với tên môn học từ lâu (chỉ biết thời hướng có những thứ “phải vẽ rồi mới học được” thì mới đủ. 
khoá 1983, 1984 ở trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã có), Vậy phải phân tách giai kỳ.
đó là môn “Nguyên lý cấu tạo kiến trúc”, nhưng dần dà do Thực tế thì trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí 
gọi ngắn gọn lại mà giờ đây được gọi là môn “Cấu tạo kiến Minh cũng đã đi đầu trong việc chia hai giai kỳ cho môn học 
trúc”. Các giảng viên luôn tâm niệm là phải giảng nguyên lý cấu tạo kiến trúc, mỗi phần 3 tín chỉ, phần đầu vào cuối học 
chứ không giảng theo kiểu cụ thể hoá hay hiện tượng hoá. kỳ 2 và phần hai vào cuối học kỳ 3- cách nhau đúng một kỳ. 
Nhưng đấy mới chỉ là tâm niệm và được thực hiện phần nào- Phần cấu tạo kiến trúc 2 học song song với đồ án kiến trúc 
do nhiều lý do. Cuối cùng thì những hiện tượng như những 2, như vậy thực tế vẫn chưa thể gọi là sinh viên đã đủ năng 
lời giải mang tính cụ thể, một kết quả cụ thể được sinh viên lực thẩm thấu môn cấu tạo 2.
xem như một công thức cần phải nhất nhất làm theo, thiếu 
hẳn đi tính phân tích đánh giá so sánh lựa chọn giải pháp Căn cứ chương trình đào tạo kiến trúc sư của trường Đại 
theo hoàn cảnh. học Kiến trúc Hà Nội, việc đặt giai kỳ 2 (cấu tạo kiến trúc 2) 
 sau đồ án kiến trúc 4, song song với đồ án kiến trúc 5 là hợp 
 Với thời lượng môn học như hiện nay, với bối cảnh lý, thoả mãn việc hội tụ năng lực thẩm thấu và nhu cầu tìm 
hoạt động nghề nghiệp như hiện nay, cùng với đòi hỏi của hiểu của sinh viên theo hướng “phải vẽ rồi mới học được” 
chuẩn đầu ra và định hướng CDIO thì xu hướng giảng dạy đã nêu trên.
môn cấu tạo kiến trúc cho sinh viên ngành kiến trúc theo 
nguyên lý là bắt buộc, nó cho sinh viên một cách nhìn, một 4. Kết luận
hạt mầm của tư duy hơn là cho họ một vài trái chín. Như vậy, có thể thấy được những nét bao quát mang tính 
 - Xu hướng nghiên cứu đánh giá xu thế tất yếu của việc cần phải luôn đổi mới môn học Cấu 
 Trong thử nghiệm của giảng viên, khi cho sinh viên tạo kiến trúc trong đào tạo kiến trúc sư ở trường Đại học Kiến 
hoặc nhóm sinh viên lựa chọn một chủ đề- bộ phận hay tập trúc Hà Nội nhằm bắt kịp và chủ động đáp ứng nhu cầu của 
hợp các bộ phận cấu tạo kiến trúc để tìm kiếm sưu tầm, nhận xã hội cũng như những tiêu chí đặt ra trong chiến lược đào 
xét và đánh giá theo nhưng tiêu chí mà giảng viên đặt ra, kết tạo chung của Nhà trường cũng như Bộ môn- theo xu thế 
quả cho thấy những gì sinh viên thu được có giá trị hơn là họ chung của hệ thống đào tạo Việt Nam và thế giới.
được giao vẽ bộ phận đó- trong trạng thái chập chững của Được biết hiện nay Bộ môn công nghệ kiến trúc và Khoa 
một người mới bước vào học kỳ đầu của năm thứ hai. Điều kiến trúc- trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cũng đang dần 
này có vẻ mâu thuẫn với việc trải nghiệm thực hành bằng điều chỉnh môn học cấu tạo kiến trúc theo hướng đổi mới 
cách vẽ nó, nhưng nếu xem trình bầy mới thấy lượng thông và hiệu quả, mong rằng những nhận định trên đây có được 
tin mà sinh viên chuyển tải tới người xem- nghe nhiều hơn những đóng góp phần nào cho việc đó và vì vậy đóng góp 
rất nhiều so với chừng ấy thời gian để vẽ nó (vẫn là trong cho công cuộc đổi mới chung trong đào tạo của nhà trường./.
điều kiện của đầu học kỳ 1 của năm thứ 2)
 S¬ 40 - 2021 95
 KHOA H“C & C«NG NGHª
 T¿i lièu tham khÀo 5. Nguyễn Thị Trang Nhung, Phạm Tiến Toàn, Bàn về nguồn học 
 liệu phục vụ sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa 
 1. Bộ môn cấu tạo và trang thiết bị công trình, Giáo trình Cấu tạo học theo phương thức đào tạo tín chỉ tại các trường đại học, 
 kiến trúc, khoa Kiến trúc, trường Đại học Kiến trúc Hà Nội Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội
 2. Trần Minh Tùng - Trần Tuấn Anh - Ngô Hà Thanh, Hiện đại hoá 6. Nguyễn Văn Hảo, Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề: lý luận 
 dạy và học Cấu tạo kiến trúc với sự hỗ trợ của đối tác bên ngoài, và ứng dụng, Đại học Nha Trang
 Tạp chí Kiến trúc số 04 - 2017)
 7. Rob Abel, Malcolm Brown and Jack Suess, A new architecture for 
 3. Lê Bá Lâm, Xây dựng sản phẩm thông tin “Hướng dẫn học tập và leaning, EDUCAUSE Review, vol. 48, no. 5 (September/October 
 nghiên cứu theo chủ đề” của các thư viện đại học Việt Nam, Tạp 2013)
 chí Thư viện Việt Nam - 2016 - Số 5 - Tr. 24-28,34
 8. The role of architects - https://www.designingbuildings.co.uk/wiki
 4. Phạm Đình Trúc, Xây dựng “học liệu mở”: mở cách học mới, Đại 
 học Quốc gia TP.HCM 9. Architectural training - https://www.designingbuildings.co.uk/wiki
 Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản...
 (tiếp theo trang 92)
 mình là chủ sở hữu hoặc thuê để sử dụng; 5. Kết luận
 Không cho phép chủ sở hữu đăng ký hộ khẩu thường trú, VPKHLT là mộ loại hình bất động sản đã được ra đời và 
 nhưng cho phép đăng ký tạm trú; đang phát triển không những ở các nước phát triển thế giới 
 Việc thiết kế và xây dựng công trình phải đáp ứng được mà còn ngay cả ở Việt Nam.
 hai yêu cầu vừa để làm văn phòng và vừa để ở; Ở một số nước phát triển trên thế giới, khi VPKHLT mới 
 Đối với một tòa nhà mà có kết hợp căn hộ VPKHLT và ra đời cũng chưa được công nhận hợp pháp nhưng đến nay 
 căn hộ để ở thì nên tách thành hai khu vực riêng biệt, có hệ đã có một số nước công nhận nó như một loại hình bất động 
 thống thang máy riêng; sản hợp pháp.
 Đối với công tác quản lý vận hành và bảo trì tòa nhà Ở Việt Nam, Chính phủ và Thủ tướng chính phủ đang 
 tòa nhà hoàn toàn là căn hộ VPKHLT hoặc có một số căn quan tâm chỉ đạo các cơ quan ban ngành nghiên cứu để có 
 hộ VPKHLT cùng với các căn hộ chung cư việc quản lý vận thể đưa VPKHLT vào các quy định pháp luật có liên quan 
 hành và bảo trì, nên quan niệm căn hộ VPKHLT như những nhằm thúc đẩy sự pháp triển của nó cho lành mạnh và hợp 
 căn hộ chung cư để ở. pháp./.
 T¿i lièu tham khÀo 4. Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013;
 1. What is a Korean officetel Case study on Bundang, Emilien 5. Nghị định 99/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nhà ở 2014;
 Gohaud, Seungman Baek, Southeast University.Frontiers of 6. Nghị định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của Chính phủ về 
 Architectural Research quy định chi tiết một số điển của Luật Kinh doanh Bất động sản;
 2. Sustainable Renovation Strategy for Officetels in Korea, Seokgil 7. Thông tư 19/2016/TT-BXD hướng dẫn thực hiện Luật Nhà ở và 
 Jang*1, Junehyung Je1 and Thorsten Schuetze2, 1Master student, Nghị định 99/2015; 
 Department of Architecture, Sungkyunkwan University, Republic 8. QCVN 04:2012/BXD Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về nhà ở và 
 of Korea, 2Associate Professor, Department of Architecture, công trình công cộng;
 Sungkyunkwan University, Republic of Korea
 9. TCVN 4319:2012 Nhà và công trình công cộng – Nguyên tắc cơ 
 3. Luật nhà ở số 65/2014/QH13; bản để thiết kế.
THỂ LỆ VIẾT VÀ GỬI BÀI 
CHO TẠP CHÍ KHOA HỌC KIẾN TRÚC – XÂY DỰNG
1. Bài gửi đăng tạp chí phải là công trình nghiên cứu của tác giả, 6. Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị, nơi làm việc, số điện thoại, e-mail 
 chưa đăng và chưa gửi đăng ở bất kỳ tạp chí nào khác. của tác giả kèm theo một file chứa nội dung bài báo.
2. Bài gửi đăng bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh, được đánh máy 7. Bài viết phải có tên bằng tiếng Việt và tiếng Anh, các từ khóa tìm 
 tính, in trên 1 mặt giấy khổ A4 thành 2 bản (phông chữ Arial kiếm. Mỗi bài cần kèm theo phần tóm tắt bằng tiếng Việt và tiếng 
 (Unicode), cỡ chữ 11; lề trên và lề dưới 3cm; lề phải và lề trái Anh (cỡ chữ 10, tối đa là 150 từ) cung cấp những nội dung chính 
 3cm). của bài viết.
3. Các hình vẽ phải rõ ràng, chuẩn xác. Nếu bài có ảnh thì phải gửi 8. Cấu trúc bài báo gồm các phần: dẫn nhập, nội dung khoa học và 
 kèm ảnh gốc độ phân giải 200dpi. Hình vẽ và ảnh phải được chú kết luận (viết thành mục riêng). Bài báo phải đưa ra được các kết 
 thích đầy đủ. quả nghiên cứu mới hoặc các ứng dụng mới hay phải nêu được 
4. Các công thức và các thông số có liên quan phải được chế bản hiện trạng, những hướng phát triển cơ bản của vấn đề được đề 
 bằng phần mềm Mathtype (kể cả công thức hoặc các thành phần cập, khả năng nghiên cứu, phát triển và ứng dụng tại Việt Nam. 
 của công thức có trên các dòng văn bản). Bài giới thiệu tổng quan không quá 10 trang; công trình nghiên 
 cứu và triển khai ứng dụng không quá 8 trang.
5. Tài liệu tham khảo chính, trích dẫn phải có đủ các thông tin theo 
 trình tự sau: Họ tên tác giả (hoặc chủ biên), tên sách (tên bài báo/ 9. Với bài thông tin khoa học, tin ngắn: Là các bài dịch tổng thuật, 
 tạp chí, tên báo cáo khoa học), nơi xuất bản, nhà xuất bản, năm tổng quan về các vấn đề khoa học công nghệ xây dựng kiến trúc 
 xuất bản, trang trích dẫn (tối đa 10 tài liệu tham khảo chính). có tính thời sự.
 10. Không trả lại bản thảo cho những bài không đăng./.
9696 T„PT„P CHŠCHŠ KHOAKHOA H“CH“C KI¦NKI¦N TR”CTR”C -- XŸYXŸY D¼NGD¼NG

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_danh_gia_viec_ap_dung_loai_hinh_bat_dong_san_van.pdf