Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam

Việc triển khai CPTPP và EVFTA là bước đi quan trọng thúc đẩy đa dạng

hoá thị trường, mở rộng đối tác cho Việt Nam. Trong lĩnh vực thu hút FDI43, Việt Nam sẽ có

cơ hội đón nhận dòng vốn FDI “chất lượng cao” của các nước thành viên CPTPP như Nhật

Bản, Canada. Quy định liên quan tới đầu tư trong CPTPP được đánh giá là có tác động lớn

trong việc thu hút đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Do vậy, trọng tâm của

bài viết là khái quát các quy định của CPTPP về đầu tư; đánh giá quy định về nguyên tắc đầu

tư và cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư trong CPTPP với các quy định của pháp luật

Việt Nam hiện hành để từ đó đưa ra một số giải pháp cho Việt Nam sao cho phù hợp với các

quy định trong CPTPP nh m tạo ra một môi trường đầu tư được bảo đảm toàn diện

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 1

Trang 1

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 2

Trang 2

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 3

Trang 3

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 4

Trang 4

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 5

Trang 5

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 6

Trang 6

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 7

Trang 7

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 8

Trang 8

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 9

Trang 9

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 3660
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam

Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam
 toàn, 
đầy đủ theo tập quán quốc tế. Tuy nhiên, do có nội hàm nguyên tắc này khá chung chung, tiêu 
chuẩn đối xử tối thiểu đã trở thành nguyên tắc gây tranh cãi trong các vụ kiện tụng về đầu tư, 
theo đó, nhà đầu tư dựa vào nguyên tắc này để phản đối bất kỳ quy định nào của nước nhận 
đầu tư mà bất lợi cho mình51. Do đó, Hiệp định CPTPP đã quy định bổ sung nhằm giới hạn 
nguyên tắc này. Cụ thể là yêu cầu ―chuẩn đối xử tối thiếu‖ phải là các nguyên tắc phù hợp với 
―tập quán pháp luật quốc tế‖. Nghĩa là Nhà nước có quy định chính sách pháp luật hay thủ tục 
nào đó khác với dự kiến/mong đợi của nhà đầu tư sẽ không bị coi là vi phạm ―chuẩn đối xử 
tối thiểu‖. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng kiện đòi Nhà nước bồi thường cho mình vì 
một chính sách mới nào đó của Nhà nước khiến lợi nhuận kinh doanh của nhà đầu tư không 
được như kỳ vọng trước đó của nhà đầu tư. Nội dung của nguyên tắc này có thể được thể hiện 
thông qua chính sách về đầu tư kinh doanh của Việt Nam52 và trong các văn bản pháp luật về 
tố tụng như Bộ luật tố tụng dân sự 2014, Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Cụ thể nguyên tắc này 
yêu cầu các nước thành viên phải đảm bảo phù hợp với ―tập quán pháp luật quốc tế‖,được 
hiểu là các nguyên tắc quốc tế về bảo vệ đầu tư nước ngoài đã trở thành tập quán chung được 
các quốc gia áp dụng phổ biến và liên tục và coi đó như nghĩa vụ bắt buộc của mình53. Vì vậy, 
Luật đầu tư 2014 quy định những chính sách cụ thể nhằm bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư 
không bị thiệt hại khi thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam. Vì vậy, về cơ bản, quy định của 
pháp luật đầu tư Việt Nam quy định nguyên tắc này tương đối phù hợp với Hiệp định CPTPP. 
Đối xử trong trường hợp xung đột v trang và bạo loạn dân sự 
Hiệp định CPTPP đề cập đến nguyên tắc này nhằm quy định một cơ chế bảo hộ đối 
với các loại tài sản, khoản đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài không bị quốc gia sở tại trưng 
dụng hoặc huỷ toàn bộ, trừ trường hợp có xung đột vũ trang hoặ bạo loạn dân sự gây ra. 
Trường hợp bị trưng dụng hoặc bị phá huỷ thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ được khắc phục, bồi 
thường thiệt hại một cách thích hợp cho nhà đầu tư. Trường hợp này trong Hiệp định CPTPP 
gọi là tước quyền sở hữu và bồi thường. Hiệp định CPTPP quy định các trường hợp mà quốc 
gia sở tại có quyền tước quyền sở hữu hoặc quốc hữu hoá của nhà đầu tư nước ngoài. Đó là vì 
mục đích công cộng; trên cơ sở không phân biệt đối xử; thực hiện bồi thường nhanh chóng, 
thoả đáng và thoả đáng theo quy định; phù hợp với thủ tục pháp luật. Nội dung của nguyên 
51  
Chuong%209.pdf, trang 2, cập nhật ngày 7/2/2020. 
52 Điều 5, Luật đầu tư năm 2014. 
53  
_Chuong%209.pdf, trang 2, cập nhật ngày 7/2/2020. 
1053 
tắc này được thể hiện trong biện pháp bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư54. Cụ thể 
tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành 
chính. Nghĩa rằng, nhà đầu tư nước ngoài luôn được bảo đảm đẩy đủ quyền và lợi ích khi thực 
hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Trường hợp nhà nước Việt Nam trưng mua, trưng dụng 
tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, 
chống thiên tai thì nhà đầu tư được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật Việt 
Nam. Do đó, quy định này của pháp luật Việt Nam đã có sự tương thích với quy định của 
Hiệp định CPTPP. 
Chuyển tiền 
Hiệp định CPTPP xác định đây là quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài cần được bảo 
đảm. Nước tiếp nhận đầu tư phải cho phép các nhà đầu tư tự do chuyển vốn liên quan tới 
khoản đầu tư gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận, cổ phần, các khoản lãi, phí bản quyền, giá trị 
hợp đồng, bồi thường tranh chấp. Tuy nhiên cơ chế này bị giới hạn trong một số trường hợp 
như phá sản, tội phạm hình sự, nghĩa vụ tài chính với quốc gia sở tại, các thủ tục tố tụng tại 
Toà án,... Nội dung quy định này trong pháp luật đầu tư Việt Nam được thể hiện thông qua 
bảo đảm chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài. Quy định tại Điều 11 Luật 
đầu tư 2014 thể hiện rõ pháp luật Việt Nam cho phép các nhà đầu tư được chuyển vốn ra nước 
ngoài gồm: vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư, thu thập từ hoạt động kinh doanh, tiền và 
tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư. Và nhà đầu tư nước ngoài chỉ được 
chuyển tài sản đi khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam. 
Với quy định này của pháp luật Việt Nam có phần tạo điều kiện hơn so với quy định của Hiệp 
định CPTPP cho nhà đầu tư nước ngoài được chuyển tài sản ra nước ngoài. Bởi nhà đầu tư 
nước ngoài chỉ cần đảm bảo đóng đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước Việt Nam, còn 
những trường hợp khác bị giới hạn trong Hiệp định CPTPP chưa được đề cập trong quy định 
của pháp luật Việt Nam. 
2.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư 
Căn cứ Điều 9.1 Hiệp định CPTPP, nguyên đơn của vụ án đầu tư trong khuôn khổ 
CPTPP có thể là nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu, kiểm soát trực tiếp 
hoặc gián tiếp có tranh chấp trong hoạt động đầu tư với một Bên tham gia khác. Bị đơn là 
Bên liên quan đến tranh chấp trong đầu tư. Như vậy, trong một vụ tranh chấp đầu tư trong 
khuôn khổ CPTPP, khi có căn cứ để tiến hành khởi kiện, nhà đầu tư có thể khởi kiện bất kỳ 
chủ thể nào có liên quan đến tranh chấp trong đầu tư, có hành vi vi phạm Hiệp định gây 
thiệt hại cho phía nhà đầu tư. Nói cách khác, cơ quan nhà nước Việt Nam cấp trung ương, 
địa phương và bất kỳ chủ thể nào, chẳng hạn như doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện chức 
năng của Chính phủ theo ủy quyền hoàn toàn có khả năng trở thành bị đơn trong vụ án đầu 
tư trong khuôn khổ CPTPP. 
54 Điều 9, Luật đầu tư 2014. 
1054 
Theo quy định tại Điều 9.19 Hiệp định, trường hợp xảy ra tranh chấp giữa nhà đầu tư 
và quốc gia thành viên mà tranh chấp này không được giải quyết theo phương thức bàn bạc và 
thỏa thuận trong vòng sáu tháng kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu bàn bạc và thương 
lượng từ phía nhà đầu tư, nhà đầu tư có quyền nộp hồ sơ khởi kiện lên cơ quan tài phán khi có 
đủ những căn cứ sau: (i) bên bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Hiệp định và (ii) 
phía nhà đầu tư đã gánh chịu thiệt hại hoặc tổn thất do vi phạm đó gây ra. Như vậy, cũng như 
các nguyên tắc, lý luận về tố tụng trong kinh doanh, thương mại, đầu tư thông thường, căn cứ 
để khởi kiện một vụ tranh chấp là hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế. Điểm cần lưu ý là Hiệp 
định CPTPP cho phép nhà đầu tư được khởi kiện từ giai đoạn đăng ký đầu tư. Nghĩa là, ngay 
từ giai đoạn đăng ký, nhà đầu tư ―bị làm khó làm dễ‖ về các thủ tục hành chính là đã có thể 
khởi kiện. 
Theo Hiệp định CPTPP, tranh chấp về đầu tư sẽ được giải quyết tại Trọng tài quốc tế 
độc lập. Việc xác định trọng tài giải quyết tranh chấp sẽ được thực hiện theo nguyên tắc sau: 
(a) Căn cứ theo Công ước ICSID và các Nguyên tắc Tố tụng Trọng tài của ICSID với 
điều kiện bên bị đơn lẫn Bên tham gia Hiệp định của bên nguyên đơn là các thành viên của 
Công ước ICSID; 
(b) Căn cứ theo các Nguyên tắc về Năng lực Bổ sung của ICSID với điều kiện là bên 
bị đơn hoặc Bên tham gia Hiệp định của bên nguyên đơn là thành viên của Công ước ICSID; 
(c) Căn cứ theo các nguyên tắc của UNCITRAL. 
(d) Nếu bên nguyên đơn và bên bị đơn đã thống nhất với nhau về cơ quan tài phán 
khác và các nguyên tắc trọng tài khác. 
Một điểm mới và tiến bộ của CPTPP so với các FTA (hiệp định tự do thương mại) 
khác là cho phép doanh nghiệp kiện Chính phủ hay Chính phủ kiện Chính phủ về các dự án 
đầu tư kinh doanh. Bởi để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, CPTPP cho phép nhà 
đầu tư nước ngoài được tiến hành khởi kiện ra cơ quan trọng tài quốc tế trong một số trường 
hợp khi quyền lợi của nhà đầu tư bị chính quyền nước sở tại xâm phạm trái với các tiêu chuẩn 
được Hiệp định đặt ra. Như nhà đầu tư nước ngoài có quyền khởi kiện khi quyền lợi bị xâm 
phạm như trưng thu, tước quyền sở hữu, tiêu chuẩn đối xử tối thiểu ngoại trừ trường hợp có 
tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các cam kết hay nghĩa vụ của hợp đồng đầu tư và chấp 
thuận đầu tư. Liên quan tới cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư, Luật đầu tư năm 
2014 có quy định tại Điều 14. Cụ thể, pháp luật Việt Nam xác định các phương thức giải 
quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh gồm: thương lượng, hoà giải, trọng tài và 
toà án Việt Nam. Tuy nhiên, tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và cơ quan có thẩm 
quyền liên quan tới hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam chưa được cụ thể hoá 
rõ ràng như các quy định trong Hiệp định CPTPP. Việc CPTPP có những quy định chi tiết, cụ 
thể về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư có thể đặt cơ quan quản lý của nhà nước 
vào rủi ro có thể bị khởi kiện bất cứ lúc nào. Đặc biệt, với việc cơ chế quản lý trong lĩnh vực 
đầu tư hiện nay được thực hiện theo cơ chế phân cấp quản lý, tạo ra quyền lực rất lớn cho các 
địa phương. Theo đó, với CPTPP, khi các cơ quan quản lý, cơ quan quyền lực ở địa phương 
1055 
có hành vi vi phạm trong lĩnh vực đầu tư thì cơ quan này hoàn toàn có khả năng phải đối mặt 
với nguy cơ bị các nhà đầu tư khởi kiện. Do đó, để hạn chế rủi ro này, cần có sự thay đổi 
trong tư duy quản lý ở trung ương và địa phương theo hướng minh bạch, chuẩn hóa, phải cải 
thiện môi trường đầu tư, thực hiện đúng các cam kết một cách nhất quán, từ quy định đến 
thực thi, từ bộ xuống tỉnh, ... để tránh bị nhà đầu tư khởi kiện. Nhìn chung, việc CPTPP được 
thông qua và có giá trị áp dụng tại Việt Nam là một tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế Việt 
Nam. CPTPP cũng đặt ra những quy định chi tiết, cụ thể trong vấn đề bảo đảm quyền lợi của 
các nhà đầu tư thuộc các quốc gia thành viên của Hiệp định. Tuy nhiên, để việc áp dụng 
CPTPP đem lại những hiệu quả thực tế, phía cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp 
cần nắm vững các quy định trong hiệp định cũng như đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong 
hoạt động của mình. Do đó, với quy định tại Điều 14 Luật đầu tư năm 2014 cần có hướng dẫn 
cụ thể hơn để tương thích với quy định trong Hiệp định CPTPP. 
3. Kết luận 
Có thể thấy rằng, quy định của pháp luật Việt Nam tương đối phù hợp và đầy đủ các 
nội dung trong Hiệp định CPTPP. Bởi trước và trong quá trình đàm phán ký kết hiệp định 
CPTPP, Việt Nam đã là thành viên của nhiều hiệp định thương mại tự do, trong đó đáng chú ý 
nhất là cam kết của Việt Nam về đầu tư trong khuôn khổ WTO. Những quy định của WTO 
trong lĩnh vực đầu tư có tính phổ cập, bao trùm và cũng đồng thời là nền tảng để các quốc gia 
đàm phát ký kết Hiệp định CPTPP55. Hiệp định CPTPP với các quy định ―mở‖, linh hoạt sẽ 
giúp Việt Nam thu hút đầu tư gắn với chuyển giao công nghệ cao và nâng cao trình độ quản 
trị, giúp chúng ta tận dụng được các cơ hội thương mại. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh, cam 
kết của CPTPP sẽ đem lại cho nước ta nhiều nhà đầu tư tốt hơn, loại bỏ được những nhà đầu 
tư yếu kém, thiếu chuyên nghiệp, không minh bạch. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, 
thuận lợi đó thì những cam kết và quy định trong CPTPP cũng đặt Chính phủ và cơ quan quản 
lý nhà nước vào hoàn cảnh mới với nhiều thách thức, đòi hỏi cao. Đó là phải hoàn thiện pháp 
luật trong nước theo Hiệp định CPTPP. Những nước đang phát triển khi tham gia vào CPTPP 
thường có hệ thống pháp luật chưa tương xứng với yêu cầu của luật chơi chung. Do đó, thông 
qua việc tham gia các CPTPP, các nước đang phát triển có cơ hội hoàn thiện hệ thống pháp 
luật trong nước theo những yêu cầu và chuẩn mực của luật chơi này. Theo đó, Chính phủ sẽ 
nghiên cứu, rà soát, đề xuất trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành một số 
đạo luật quan trọng như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp theo phương thức đối tác công tư; 
Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, và một số Luật về thuế... nhằm tiếp tục 
đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường và thực hiện hoạt động đầu 
55 TS.Nguyễn Toàn Thắng, TS.Nguyễn Thị Hồng Yến, Những khía cạnh pháp lý về thực thi của Việt Nam đối 
với cam kết đầu tư trong Hiệp định đối tác toàn diên và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương 
(CPTPP),
c%20thi%20cua%20Viet%20Nam%20doi%20voi%20cam%20ket%20dau%20tu%20trong%20CPTPP.pdf, cập 
nhật ngày 8/2/2020, trang 158. 
1056 
tư, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp56. Cần lưu ý đến việc bị kiện bởi doanh nghiệp, 
nhà đầu tư thì Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương cần phải hành 
xử phù hợp theo cam kết. Việt Nam cần cải cách, thay đổi theo hướng minh bạch, chuẩn hóa, 
cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện đúng các cam kết từ quy định đến thực thi, tuân thủ 
nghiêm chỉnh luật chơi để tránh những thiệt hại về mọi mặt. 
Liên quan tới các quy định cụ thể trong Luật đầu tư năm 2014 hiện hành cũng đang được 
Chính phủ xem xét để sửa đổi bổ sung sao cho phù hợp với các Hiệp định thương mại tự do thế 
hệ mới như CPTPP. Thứ nhất, cần xác định lại khái niệm đầu tư kinh doanh ở phạm vi rộng hơn 
so với quy định hiện nay Thứ hai, liên quan tới chủ thể đầu tư, khái niệm nhà đầu tư trong Luật 
đầu tư năm 2014 cần được xác định không chỉ bao gồm nhà đầu tư đang thực hiện hoạt động đầu 
tư mà có thể bao gồm những nhà đầu tư có dự định thực hiện hoạt động đầu tư hoặc đã thực hiện 
xong hoạt động đầu tư và làm rõ khái niệm tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ ba, bổ 
sung những nguyên tắc nền tảng của đầu tư kinh doanh sao cho phù hợp với các điều ước quốc tế 
mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập, cụ thể là nguyên tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc đối xử tối 
huệ quốc. Thứ tư, biện pháp bảo đảm cho phép nhà đầu tư nước ngoài được chuyển tiền, tài sản ra 
ngoài nước cần bổ sung thêm một số trường hợp theo quy định của Hiệp định CPTPP như là nhà 
đầu tư bị phá sản, nhà đầu tư tuyên bố là tội phạm hình sự hoặc nhà đầu tư có liên quan tới các thủ 
tục tố tụng tại Toà án,.... Thứ năm, liên quan tới cơ chế giải quyết tranh chấp cũng cần quy định 
một cách cụ thể hơn nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài.. Bên cạnh đó, Việt Nam 
cũng cần cân nhắc, xem xét tham gia ký kết Hiệp ước ICSID. Bởi việc Việt Nam chưa là thành 
viên của ICSID làm cho các nhà đầu tư sẽ vấp phải những khó khăn nhất định về vấn đề an toàn 
pháp lý khi xảy ra tranh chấp./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Thanh Sơn, Triển khai các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong giai đoạn hội 
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện, 
/2018/815809/trien-khai-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-trong-giai-doan-hoi-nhap-
kinh-te-quoc-te-sau-rong-va-toan-dien.aspx. 
2. CPTPP: Cơ chế bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài - thách thức lớn với Việt Nam, 
dau-tu-nuoc-ngoai-thach-thuc-lon-voi-viet-nam-67513.aspx. 
3. GS.TSKH.Nguyễn Mại, CPTPP với đầu tư trực tiếp nước ngoài, 
138638.html , 
56 Hiệp định CPTPP, EVFTA: Tạo động lực dịch chuyển dòng vốn đầu tư, https://thuvienphapluat.vn/ 
tintuc/vn/hiep-dinh-CPTPP/24947/hiep-dinh-cptpp-evfta-tao-dong-luc-dich-chuyen-dong-von-dau-tu, cập nhật 
ngày 6/2/2020. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_cac_quy_dinh_ve_dau_tu_trong_hiep_dinh_doi_tac_to.pdf