Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam
Việc triển khai CPTPP và EVFTA là bước đi quan trọng thúc đẩy đa dạng
hoá thị trường, mở rộng đối tác cho Việt Nam. Trong lĩnh vực thu hút FDI43, Việt Nam sẽ có
cơ hội đón nhận dòng vốn FDI “chất lượng cao” của các nước thành viên CPTPP như Nhật
Bản, Canada. Quy định liên quan tới đầu tư trong CPTPP được đánh giá là có tác động lớn
trong việc thu hút đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Do vậy, trọng tâm của
bài viết là khái quát các quy định của CPTPP về đầu tư; đánh giá quy định về nguyên tắc đầu
tư và cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư trong CPTPP với các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành để từ đó đưa ra một số giải pháp cho Việt Nam sao cho phù hợp với các
quy định trong CPTPP nh m tạo ra một môi trường đầu tư được bảo đảm toàn diện
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu các quy định về đầu tư trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – So sánh với pháp luật đầu tư Việt Nam
toàn, đầy đủ theo tập quán quốc tế. Tuy nhiên, do có nội hàm nguyên tắc này khá chung chung, tiêu chuẩn đối xử tối thiểu đã trở thành nguyên tắc gây tranh cãi trong các vụ kiện tụng về đầu tư, theo đó, nhà đầu tư dựa vào nguyên tắc này để phản đối bất kỳ quy định nào của nước nhận đầu tư mà bất lợi cho mình51. Do đó, Hiệp định CPTPP đã quy định bổ sung nhằm giới hạn nguyên tắc này. Cụ thể là yêu cầu ―chuẩn đối xử tối thiếu‖ phải là các nguyên tắc phù hợp với ―tập quán pháp luật quốc tế‖. Nghĩa là Nhà nước có quy định chính sách pháp luật hay thủ tục nào đó khác với dự kiến/mong đợi của nhà đầu tư sẽ không bị coi là vi phạm ―chuẩn đối xử tối thiểu‖. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng kiện đòi Nhà nước bồi thường cho mình vì một chính sách mới nào đó của Nhà nước khiến lợi nhuận kinh doanh của nhà đầu tư không được như kỳ vọng trước đó của nhà đầu tư. Nội dung của nguyên tắc này có thể được thể hiện thông qua chính sách về đầu tư kinh doanh của Việt Nam52 và trong các văn bản pháp luật về tố tụng như Bộ luật tố tụng dân sự 2014, Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Cụ thể nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên phải đảm bảo phù hợp với ―tập quán pháp luật quốc tế‖,được hiểu là các nguyên tắc quốc tế về bảo vệ đầu tư nước ngoài đã trở thành tập quán chung được các quốc gia áp dụng phổ biến và liên tục và coi đó như nghĩa vụ bắt buộc của mình53. Vì vậy, Luật đầu tư 2014 quy định những chính sách cụ thể nhằm bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư không bị thiệt hại khi thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam. Vì vậy, về cơ bản, quy định của pháp luật đầu tư Việt Nam quy định nguyên tắc này tương đối phù hợp với Hiệp định CPTPP. Đối xử trong trường hợp xung đột v trang và bạo loạn dân sự Hiệp định CPTPP đề cập đến nguyên tắc này nhằm quy định một cơ chế bảo hộ đối với các loại tài sản, khoản đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài không bị quốc gia sở tại trưng dụng hoặc huỷ toàn bộ, trừ trường hợp có xung đột vũ trang hoặ bạo loạn dân sự gây ra. Trường hợp bị trưng dụng hoặc bị phá huỷ thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ được khắc phục, bồi thường thiệt hại một cách thích hợp cho nhà đầu tư. Trường hợp này trong Hiệp định CPTPP gọi là tước quyền sở hữu và bồi thường. Hiệp định CPTPP quy định các trường hợp mà quốc gia sở tại có quyền tước quyền sở hữu hoặc quốc hữu hoá của nhà đầu tư nước ngoài. Đó là vì mục đích công cộng; trên cơ sở không phân biệt đối xử; thực hiện bồi thường nhanh chóng, thoả đáng và thoả đáng theo quy định; phù hợp với thủ tục pháp luật. Nội dung của nguyên 51 Chuong%209.pdf, trang 2, cập nhật ngày 7/2/2020. 52 Điều 5, Luật đầu tư năm 2014. 53 _Chuong%209.pdf, trang 2, cập nhật ngày 7/2/2020. 1053 tắc này được thể hiện trong biện pháp bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư54. Cụ thể tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Nghĩa rằng, nhà đầu tư nước ngoài luôn được bảo đảm đẩy đủ quyền và lợi ích khi thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Trường hợp nhà nước Việt Nam trưng mua, trưng dụng tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai thì nhà đầu tư được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật Việt Nam. Do đó, quy định này của pháp luật Việt Nam đã có sự tương thích với quy định của Hiệp định CPTPP. Chuyển tiền Hiệp định CPTPP xác định đây là quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài cần được bảo đảm. Nước tiếp nhận đầu tư phải cho phép các nhà đầu tư tự do chuyển vốn liên quan tới khoản đầu tư gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận, cổ phần, các khoản lãi, phí bản quyền, giá trị hợp đồng, bồi thường tranh chấp. Tuy nhiên cơ chế này bị giới hạn trong một số trường hợp như phá sản, tội phạm hình sự, nghĩa vụ tài chính với quốc gia sở tại, các thủ tục tố tụng tại Toà án,... Nội dung quy định này trong pháp luật đầu tư Việt Nam được thể hiện thông qua bảo đảm chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài. Quy định tại Điều 11 Luật đầu tư 2014 thể hiện rõ pháp luật Việt Nam cho phép các nhà đầu tư được chuyển vốn ra nước ngoài gồm: vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư, thu thập từ hoạt động kinh doanh, tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư. Và nhà đầu tư nước ngoài chỉ được chuyển tài sản đi khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam. Với quy định này của pháp luật Việt Nam có phần tạo điều kiện hơn so với quy định của Hiệp định CPTPP cho nhà đầu tư nước ngoài được chuyển tài sản ra nước ngoài. Bởi nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần đảm bảo đóng đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước Việt Nam, còn những trường hợp khác bị giới hạn trong Hiệp định CPTPP chưa được đề cập trong quy định của pháp luật Việt Nam. 2.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư Căn cứ Điều 9.1 Hiệp định CPTPP, nguyên đơn của vụ án đầu tư trong khuôn khổ CPTPP có thể là nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp có tranh chấp trong hoạt động đầu tư với một Bên tham gia khác. Bị đơn là Bên liên quan đến tranh chấp trong đầu tư. Như vậy, trong một vụ tranh chấp đầu tư trong khuôn khổ CPTPP, khi có căn cứ để tiến hành khởi kiện, nhà đầu tư có thể khởi kiện bất kỳ chủ thể nào có liên quan đến tranh chấp trong đầu tư, có hành vi vi phạm Hiệp định gây thiệt hại cho phía nhà đầu tư. Nói cách khác, cơ quan nhà nước Việt Nam cấp trung ương, địa phương và bất kỳ chủ thể nào, chẳng hạn như doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện chức năng của Chính phủ theo ủy quyền hoàn toàn có khả năng trở thành bị đơn trong vụ án đầu tư trong khuôn khổ CPTPP. 54 Điều 9, Luật đầu tư 2014. 1054 Theo quy định tại Điều 9.19 Hiệp định, trường hợp xảy ra tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia thành viên mà tranh chấp này không được giải quyết theo phương thức bàn bạc và thỏa thuận trong vòng sáu tháng kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu bàn bạc và thương lượng từ phía nhà đầu tư, nhà đầu tư có quyền nộp hồ sơ khởi kiện lên cơ quan tài phán khi có đủ những căn cứ sau: (i) bên bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Hiệp định và (ii) phía nhà đầu tư đã gánh chịu thiệt hại hoặc tổn thất do vi phạm đó gây ra. Như vậy, cũng như các nguyên tắc, lý luận về tố tụng trong kinh doanh, thương mại, đầu tư thông thường, căn cứ để khởi kiện một vụ tranh chấp là hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế. Điểm cần lưu ý là Hiệp định CPTPP cho phép nhà đầu tư được khởi kiện từ giai đoạn đăng ký đầu tư. Nghĩa là, ngay từ giai đoạn đăng ký, nhà đầu tư ―bị làm khó làm dễ‖ về các thủ tục hành chính là đã có thể khởi kiện. Theo Hiệp định CPTPP, tranh chấp về đầu tư sẽ được giải quyết tại Trọng tài quốc tế độc lập. Việc xác định trọng tài giải quyết tranh chấp sẽ được thực hiện theo nguyên tắc sau: (a) Căn cứ theo Công ước ICSID và các Nguyên tắc Tố tụng Trọng tài của ICSID với điều kiện bên bị đơn lẫn Bên tham gia Hiệp định của bên nguyên đơn là các thành viên của Công ước ICSID; (b) Căn cứ theo các Nguyên tắc về Năng lực Bổ sung của ICSID với điều kiện là bên bị đơn hoặc Bên tham gia Hiệp định của bên nguyên đơn là thành viên của Công ước ICSID; (c) Căn cứ theo các nguyên tắc của UNCITRAL. (d) Nếu bên nguyên đơn và bên bị đơn đã thống nhất với nhau về cơ quan tài phán khác và các nguyên tắc trọng tài khác. Một điểm mới và tiến bộ của CPTPP so với các FTA (hiệp định tự do thương mại) khác là cho phép doanh nghiệp kiện Chính phủ hay Chính phủ kiện Chính phủ về các dự án đầu tư kinh doanh. Bởi để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, CPTPP cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tiến hành khởi kiện ra cơ quan trọng tài quốc tế trong một số trường hợp khi quyền lợi của nhà đầu tư bị chính quyền nước sở tại xâm phạm trái với các tiêu chuẩn được Hiệp định đặt ra. Như nhà đầu tư nước ngoài có quyền khởi kiện khi quyền lợi bị xâm phạm như trưng thu, tước quyền sở hữu, tiêu chuẩn đối xử tối thiểu ngoại trừ trường hợp có tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các cam kết hay nghĩa vụ của hợp đồng đầu tư và chấp thuận đầu tư. Liên quan tới cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư, Luật đầu tư năm 2014 có quy định tại Điều 14. Cụ thể, pháp luật Việt Nam xác định các phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh gồm: thương lượng, hoà giải, trọng tài và toà án Việt Nam. Tuy nhiên, tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và cơ quan có thẩm quyền liên quan tới hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam chưa được cụ thể hoá rõ ràng như các quy định trong Hiệp định CPTPP. Việc CPTPP có những quy định chi tiết, cụ thể về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư có thể đặt cơ quan quản lý của nhà nước vào rủi ro có thể bị khởi kiện bất cứ lúc nào. Đặc biệt, với việc cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư hiện nay được thực hiện theo cơ chế phân cấp quản lý, tạo ra quyền lực rất lớn cho các địa phương. Theo đó, với CPTPP, khi các cơ quan quản lý, cơ quan quyền lực ở địa phương 1055 có hành vi vi phạm trong lĩnh vực đầu tư thì cơ quan này hoàn toàn có khả năng phải đối mặt với nguy cơ bị các nhà đầu tư khởi kiện. Do đó, để hạn chế rủi ro này, cần có sự thay đổi trong tư duy quản lý ở trung ương và địa phương theo hướng minh bạch, chuẩn hóa, phải cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện đúng các cam kết một cách nhất quán, từ quy định đến thực thi, từ bộ xuống tỉnh, ... để tránh bị nhà đầu tư khởi kiện. Nhìn chung, việc CPTPP được thông qua và có giá trị áp dụng tại Việt Nam là một tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam. CPTPP cũng đặt ra những quy định chi tiết, cụ thể trong vấn đề bảo đảm quyền lợi của các nhà đầu tư thuộc các quốc gia thành viên của Hiệp định. Tuy nhiên, để việc áp dụng CPTPP đem lại những hiệu quả thực tế, phía cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp cần nắm vững các quy định trong hiệp định cũng như đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động của mình. Do đó, với quy định tại Điều 14 Luật đầu tư năm 2014 cần có hướng dẫn cụ thể hơn để tương thích với quy định trong Hiệp định CPTPP. 3. Kết luận Có thể thấy rằng, quy định của pháp luật Việt Nam tương đối phù hợp và đầy đủ các nội dung trong Hiệp định CPTPP. Bởi trước và trong quá trình đàm phán ký kết hiệp định CPTPP, Việt Nam đã là thành viên của nhiều hiệp định thương mại tự do, trong đó đáng chú ý nhất là cam kết của Việt Nam về đầu tư trong khuôn khổ WTO. Những quy định của WTO trong lĩnh vực đầu tư có tính phổ cập, bao trùm và cũng đồng thời là nền tảng để các quốc gia đàm phát ký kết Hiệp định CPTPP55. Hiệp định CPTPP với các quy định ―mở‖, linh hoạt sẽ giúp Việt Nam thu hút đầu tư gắn với chuyển giao công nghệ cao và nâng cao trình độ quản trị, giúp chúng ta tận dụng được các cơ hội thương mại. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh, cam kết của CPTPP sẽ đem lại cho nước ta nhiều nhà đầu tư tốt hơn, loại bỏ được những nhà đầu tư yếu kém, thiếu chuyên nghiệp, không minh bạch. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thuận lợi đó thì những cam kết và quy định trong CPTPP cũng đặt Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước vào hoàn cảnh mới với nhiều thách thức, đòi hỏi cao. Đó là phải hoàn thiện pháp luật trong nước theo Hiệp định CPTPP. Những nước đang phát triển khi tham gia vào CPTPP thường có hệ thống pháp luật chưa tương xứng với yêu cầu của luật chơi chung. Do đó, thông qua việc tham gia các CPTPP, các nước đang phát triển có cơ hội hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước theo những yêu cầu và chuẩn mực của luật chơi này. Theo đó, Chính phủ sẽ nghiên cứu, rà soát, đề xuất trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành một số đạo luật quan trọng như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp theo phương thức đối tác công tư; Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, và một số Luật về thuế... nhằm tiếp tục đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường và thực hiện hoạt động đầu 55 TS.Nguyễn Toàn Thắng, TS.Nguyễn Thị Hồng Yến, Những khía cạnh pháp lý về thực thi của Việt Nam đối với cam kết đầu tư trong Hiệp định đối tác toàn diên và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), c%20thi%20cua%20Viet%20Nam%20doi%20voi%20cam%20ket%20dau%20tu%20trong%20CPTPP.pdf, cập nhật ngày 8/2/2020, trang 158. 1056 tư, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp56. Cần lưu ý đến việc bị kiện bởi doanh nghiệp, nhà đầu tư thì Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương cần phải hành xử phù hợp theo cam kết. Việt Nam cần cải cách, thay đổi theo hướng minh bạch, chuẩn hóa, cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện đúng các cam kết từ quy định đến thực thi, tuân thủ nghiêm chỉnh luật chơi để tránh những thiệt hại về mọi mặt. Liên quan tới các quy định cụ thể trong Luật đầu tư năm 2014 hiện hành cũng đang được Chính phủ xem xét để sửa đổi bổ sung sao cho phù hợp với các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP. Thứ nhất, cần xác định lại khái niệm đầu tư kinh doanh ở phạm vi rộng hơn so với quy định hiện nay Thứ hai, liên quan tới chủ thể đầu tư, khái niệm nhà đầu tư trong Luật đầu tư năm 2014 cần được xác định không chỉ bao gồm nhà đầu tư đang thực hiện hoạt động đầu tư mà có thể bao gồm những nhà đầu tư có dự định thực hiện hoạt động đầu tư hoặc đã thực hiện xong hoạt động đầu tư và làm rõ khái niệm tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ ba, bổ sung những nguyên tắc nền tảng của đầu tư kinh doanh sao cho phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập, cụ thể là nguyên tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc đối xử tối huệ quốc. Thứ tư, biện pháp bảo đảm cho phép nhà đầu tư nước ngoài được chuyển tiền, tài sản ra ngoài nước cần bổ sung thêm một số trường hợp theo quy định của Hiệp định CPTPP như là nhà đầu tư bị phá sản, nhà đầu tư tuyên bố là tội phạm hình sự hoặc nhà đầu tư có liên quan tới các thủ tục tố tụng tại Toà án,.... Thứ năm, liên quan tới cơ chế giải quyết tranh chấp cũng cần quy định một cách cụ thể hơn nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài.. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần cân nhắc, xem xét tham gia ký kết Hiệp ước ICSID. Bởi việc Việt Nam chưa là thành viên của ICSID làm cho các nhà đầu tư sẽ vấp phải những khó khăn nhất định về vấn đề an toàn pháp lý khi xảy ra tranh chấp./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Thanh Sơn, Triển khai các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện, /2018/815809/trien-khai-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-trong-giai-doan-hoi-nhap- kinh-te-quoc-te-sau-rong-va-toan-dien.aspx. 2. CPTPP: Cơ chế bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài - thách thức lớn với Việt Nam, dau-tu-nuoc-ngoai-thach-thuc-lon-voi-viet-nam-67513.aspx. 3. GS.TSKH.Nguyễn Mại, CPTPP với đầu tư trực tiếp nước ngoài, 138638.html , 56 Hiệp định CPTPP, EVFTA: Tạo động lực dịch chuyển dòng vốn đầu tư, https://thuvienphapluat.vn/ tintuc/vn/hiep-dinh-CPTPP/24947/hiep-dinh-cptpp-evfta-tao-dong-luc-dich-chuyen-dong-von-dau-tu, cập nhật ngày 6/2/2020.
File đính kèm:
- nghien_cuu_cac_quy_dinh_ve_dau_tu_trong_hiep_dinh_doi_tac_to.pdf