Nghi thức thờ Quan Thánh Đế Quân trong đạo tứ ân hiếu nghĩa
Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một tôn giáo bản địa được thành lập ở Nam Bộ vào khoảng giữa thế kỷ XIX
bởi ngài Ngô Lợi. Tôn chỉ của tôn giáo này là “tu nhân - học Phật”. Để học Phật, trong các gia đình
tín đồ luôn có sự hiện diện của bàn thờ tam bửu. Để “tu nhân” tín đồ bổn đạo đã được dạy phải thờ
hình ảnh Quan Thánh Đế Quân. Việc thờ Quan Đế là sự thể hiện cụ thể của triết lí hiếu nghĩa của tôn
giáo này do có sự gắn kết tính cách của nhân vật được thờ và yêu cầu tu nhân theo con đường hiếu
nghĩa của đạo. Bài viết trình bày nguyên nhân, ý nghĩa và nghi thức thờ Quan Thánh trong gia đình
tín đồ thông qua đặc tả về bàn thờ, liễn, kiêng kị, lễ cúng và các danh hiệu niệm khi cúng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Nghi thức thờ Quan Thánh Đế Quân trong đạo tứ ân hiếu nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghi thức thờ Quan Thánh Đế Quân trong đạo tứ ân hiếu nghĩa
hờ Quan Đế là sự thể hiện cụ thể của triết lí hiếu nghĩa của tôn giáo này do có sự gắn kết tính cách của nhân vật được thờ và yêu cầu tu nhân theo con đường hiếu nghĩa của đạo. Bài viết trình bày nguyên nhân, ý nghĩa và nghi thức thờ Quan Thánh trong gia đình tín đồ thông qua đặc tả về bàn thờ, liễn, kiêng kị, lễ cúng và các danh hiệu niệm khi cúng. Từ khó a: Tứ Ân Hiế u Nghĩ a, Quan đế , tôn giá o bả n đị a, thờ Quan Đế. 1. Đặt vấn đề phượng, hành lễ. [1, tr. 59-60] Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một tôn giáo bản địa Trong sinh hoạt tôn giáo cũng như trong đời được hình thành ở Nam Bộ và khoảng năm 1867. sống hàng ngày của tín đồ bổn đạo có nhiều nét Người sáng lập là ông Ngô Tự Lợi mà tín đồ tôn đặc sắc mà người ngoài ít biết hoặc không hiểu kính gọi là Đức Bổn Sư. được, trong đó phải kể tới việc thờ Quan Thánh Đức Bổn Sư tên thật là Ngô Tự Lợi hay còn Đế Quân tại nơi trang trọng ở chùa hoặc ở nhà. gọi là Ông Năm Thiếp lúc nhỏ có tên là Ngô Viện, 2. Nội dung sinh ngày mồng 5 tháng 5 năm Tân Mão (1831) 2.1. Đôi nét về Quan Thánh Đế Quân tại Kiến Hòa, Mỏ Cày, Bến Tre. Cha ông tên là Quan Thánh Đế Quân, với các tên gọi và danh Ngô Nhàn làm nghề thợ mộc, mất sớm. Mẹ ông xưng khác được mọi người biết đến như Quan tên là Phạm Thị Xuyên. Ông làm nghề nông và Vũ, Quan Vân Trường, Quan Công, Quan Đế, Mỹ sống với mẹ đến lúc trưởng thành. Nhiệm Công, Quan Lão Gia... và đặc biệt là Già Năm 1851, lúc 20 tuổi, ông viết Bà La Ni kinh Lam Chơn Tể Quan Thánh đế Quân (Đế thọ tam dài 223 chữ Hán. Đây là quyển kinh quan trọng, thiên môn chưởng ốc. Vạn thần khải tấu đế thiên được viết đầu tiên của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa văn) mà tín đồ đạo Tứ ân Hiếu Nghĩa thường xưng mang nội dung xưng tán Quán Thế Âm Bồ Tát tụng hướng đến ngài. và khuyên người đời tu tâm, dưỡng tính, từ bỏ tư Ông là nhân vật có thật trong lịch sử, tên thật danh, tư lợi, phải biết yêu thương đồng bào, nhân là Quan Vũ hiệu Vân Trường là một vị tướng cuối loại, có trách nhiệm với đất nước khi bị giặc ngoại thời Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. xâm. Thời gian ấy lại có dịch bệnh hoành hành Ông là người có công rất lớn giúp Lưu Bị - huynh khắp nơi, ông chữa bệnh giúp người và khuyên trưởng của mình thành lập nhà Thục Hán, ông tu niệm. Cho đến ngày mùng 5 tháng 5 năm Đinh được mọi người biết đến là vị đứng đầu ngũ hổ Mão (1867), lúc 37 tuổi, tương truyền ông đã đi tướng với phẩm chất: trung cang, nghĩa khí, ngay thiếp (bất tỉnh) nhiều ngày và sau khi hồi tỉnh lại chánh, liêm tiết, dũng mãnh, văn võ toàn tài, có trở thành người “giải thoát tẩy trần tâm, giáo nhơn tiết tháo của người quân tử tùng thiện đạo” (kinh Hiếu Nghĩa). Ông bắt đầu Ông được phong nhiều tước vị khác nhau thu nhận tín đồ, dạy cho họ giáo lý, nghi thức thờ như: Tráng Mậu Hầu (Hán hậu chủ năm 260), Sùng Ninh Chân Vương (Năm Sùng Ninh thứ 3 - 1104), (*) Trường Đại học Đồng Tháp. Nghĩa Dũng Võ An Vương (năm Tuyên Hòa thứ (**) Sinh viên, Trường Đại học Đồng Tháp. 5 - 1112), Hiệp Thiên Hộ Quốc Trung Nghĩa Đế 102 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) (năm Vạn Linh thứ 10 - 1528), đời Thuận Trị Đức Bổn Sư dạy rằng, việc tu nhân ấy thể sắc phong danh hiệu dài 26 chữ: Trung Nghĩa Thần hiện nội dung cốt yếu qua Tứ trọng ân: ân tổ tiên Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Hộ Quốc Bảo cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Tán Tuyên đức nhân loại. Tu nhân là hòa nhập vào cuộc sống thực Quan Thánh Đại Đế Nhà vua lại ban sắc lệnh tại rèn tâm sửa tính, bồi dưỡng đạo đức, làm lành cho cả nước đều xây miếu thờ, Xuân - Thu nhị kỳ lánh dữ, giúp đạo, giúp đời. Trong đó ân đất nước phải chí thành cúng tế. có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kì tổ quốc bị 2.2. Nguyên nhân và ý nghĩa của việc thờ ngoại xâm. cúng Quan Thánh Đế Quân Buổi đầu đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được hình Khi bước vào chùa hoặc đến nhà của tín đồ thành trong những ngày đất nước bị đô hộ cho nên đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ta luôn nhìn thấy chân trong tôn chỉ đề cao ân đất nước. Trong gia đình dung đức Quan Thánh Đế Quân uy nghiêm được là một người con giữ tròn đạo hiếu thì ở ngoài xã trang trọng kính thờ chính giữa nhà phía sau ngôi hội mới làm được người có ích cho đất nước, quê tam bửu. hương, là nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tiên, ông bà, Hình ảnh ấy thể hiện nét đặc trưng riêng của cha mẹ từ bao đời. Do đó muốn đền ơn đất nước, tín đồ bổn đạo mà nhà nhà, người người đều theo tổ tiên, ông bà, cha mẹ thì phải có bổn phận bảo lời di huấn của đức Bổn Sư - người sáng lập đạo vệ đất nước trước giặc ngoại xâm. - mà phụng hành từ những ngày đầu mở đạo cho Hơn nữa, tu nhân theo tinh thần Nho giáo đến bây giờ và mãi về sau này. để trở thành người quân tử yêu nước thương dân, Bất cứ một tôn giáo nào đều có những tín trung cang nghĩa khí, tận trung báo quốc, tam điều cơ bản làm trụ cột tạo nên hệ thống niềm tin. cương ngũ thường mà hình tượng Quan Công là Từ niềm tin đó mà hình thành giáo lý giáo luật. đại diện. Giáo lý, giáo luật thể hiện tôn chỉ hành đạo của Người đời cho ông là người hội đủ mọi đức tôn giáo đó. tính tốt đẹp như: trọng danh dự, trung thành với Khi sáng lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Đức vua, thủy chung với huynh đệ, khoan dung rộng Bổn Sư lấy Tu Nhân - Học Phật làm tôn chỉ cho lượng, dũng mãnh phi thường với kẻ thù và còn sự hành đạo của tôn giáo mình mà dạy cho tín đồ. công minh, chính trực. Ông trở thành biểu tượng của tinh thần trung cang nghĩa khí. Thành tích trừ Sách xưa có câu: gian diệt ác, góp phần xây dựng và bảo vệ quốc gia, Dục tu tiên đạo, tiên tu nhân đạo xả thân quên mình báo đền vua tôi. Hình ảnh ông Nhân đạo bất tu, tiên đạo viễn hỹ gieo niềm tin về sự hiển linh và “độ” cho người Nghĩa là: Muốn tu tiên đạo, trước phải tu đời. Bởi vậy Quan Công hay Quan Thánh Đế đã nhân đạo; nhân đạo mà không tu, tiên đạo xa vời. trở thành hình ảnh đại diện cho tinh thần Tu nhân Trong Sám Ngũ Giáo, Đức Bổn Sư cũng trong bổn đạo. truyền dạy cho tín đồ rằng: Đối với đạo Tứ ân Hiếu Nghĩa, Quan Công “Làm người thì phải tu nhân là một hình tượng thờ đặc biệt. Trong bổn đạo cho Nhân là thiên bổn căn dương vun trồng” rằng mượn hình tượng Quan Công để thờ tinh thần Qua những câu ấy ta thấy sự quan trọng của trung kiên, bất khuất, tam cương, ngũ thường để việc tu nhân, suy xét nơi mình, làm người ngay tín đồ noi gương. thẳng không trái đạo trời. Ngày bé đi học, trong lớp Trong đào Viên Minh Thánh Kinh, Đức Bổn học nào cũng có câu Tiên học lễ, Hậu học văn, đó Sư diễn tả tinh thần trung cang bất khuất của Quan là đạo lý đề cao cách đối nhân xử thế cho hợp lẽ. Công như sau: Trước hết phải trau dồi, sửa đổi, giữ trọn đạo làm “Tinh trung xung nhựt nguyệt người thì mới mong làm quân tử, thánh hiền được. Nghĩa khí quán càn khôn 103 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) Diện xích, tâm vưu xích Là tín đồ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa mà không Tu trường, nghĩa cánh trường” [2, tr. 23] có bàn thờ Ông, chân dung thờ Ông đặc trưng của Dịch Nghĩa: đạo thì không phải tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Lòng trung như là mặt trời, mặt trăng Bàn thờ Ông phân biệt riêng với bàn nhỉ đẳng, Nghĩa khí rộng lớn như vũ trụ ở trong và thấp hơn bàn Thập Phương Chư Phật. Mặt đỏ, tâm càng đỏ Chân dung thờ Ông do tín đồ trong bổn đạo Râu dài, nghĩa càng dài. [3, tr. 25] phát họa thủ công theo truyền dạy của đức Bổn Sư, Một đoạn khác trong phần kệ viết đào Viên không mua bán hay trao đổi bằng mọi hình thức. Minh Thánh Kinh: Khi có người mới nhập đạo muốn bày trí bàn thờ “Anh hùng khí cái thế thì gia chủ đó phải đến nhờ vị cư sĩ chuyên họa Chúc tàn đao phá bích ảnh thờ mà nhờ đến nhà của mình họa ảnh. Phong khố, ấn huyền lương Phía trên bức chân dung Ông là tấm hoành Tước lộc từ bất thọ” [2, tr. 24] gồm ba chữ lớn: “Hiệp Thiên Cung”, chỉ nơi Ông ngự trên tầng trời. Dưới tấm hoành Hiệp Thiên Dịch nghĩa: Cung ngay giữa là chữ Chánh hoặc chữ Khí tượng Anh hùng hào khí quán thế trưng cho Chánh Nghĩa hay Nghĩa Khí. Đuốc tàn phá vách đứng luôn đêm Dưới đó là hình họa lưỡng long tranh châu Niêm kho, trao ấn mà từ Tào Tháo được tô vẽ sắc xảo. Tước lộc chi chi cũng chẳng thèm. [3, tr. 25] Chân dung thờ Ông gồm có ba vị: Như vậy đủ cho thấy lời kinh truyền ca ngợi Chính giữa Quan đế ngự trên tòa sen, mặt Quan Công, làm cho tín đồ bổn đạo thấy được “gan trung, mật nghĩa” nơi ông, như là một tấm gương đỏ dũng mãnh, kiên nghị, râu dài năm chòm toát cụ thể để tín đồ trong bổn đạo học và noi theo. lên vẽ hùng dũng và tượng trung cho giữ trọn ngũ thường, triều phục màu xanh lam. 2.3. Bàn thờ Quan Thánh Đế Quân trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa Đứng hầu bên tả Ông là Quan võ Châu Xương, mặt đen nghĩa khí hùng hồn thể hiện qua sắc mặt. Là quan võ tay cầm Thanh long uyển nguyệt đao, mặt đao hướng ra ngoài. Đứng hầu bên hữu Ông là Quan văn Quan Bình, mặt trắng thể hiện cốt cách từ bi, vị tha. Là quan văn, cầm bao ấn, sách kinh trên có khi 3 chữ Dương Thiên Quân. Phía 4 góc chân dung thường là hình ảnh tứ linh gồm long, lân, quy, phụng hoặc cảnh sông núi, nước non. Cuối cùng phía ngoài chân dung hai bên là cặp liễn. 2.4. Các danh hiệu niệm của Quan Thánh Đế Quân trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa - Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh đế Quân (thường dùng). - Nam mô Già Lam Chơn Tể Quan Thánh Đế Hình 1. Bàn thờ Quan Đế tại nhà tín đồ đạo Quân (thường dùng). Tứ Ân Hiếu Nghĩa Nguồn: Tác giả - Nam mô Già Lam Chơn Tể Quan Thánh Đế 104 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) Quân, Quan Châu Xương, Quan Bình tam quan đại Chốn lao hình thì khỏi lao vào đế đồng chứng minh (nguyện cúng Tam ngươn). Nam nữ nghe theo lời dạy - Nam mô Đại quyền Chơn Tể Quan Thánh Gặp nạn ông sẽ thị hiện tương trợ. [3, tr. 16] Đế Quân chứng minh (Sớ Vía Ông). Trước khi tụng kinh ông thì tắm rửa sạch sẽ, - Phục ma đại đế Quan Thánh đế quân (Minh mặc quần áo chỉnh tề. Bàn thờ phải nghiêm trang, Thánh kinh - Quan Thánh đại đế phần bửu cáo). tinh khiết. Không được để kinh sách dưới đất hoặc - Nam mô Kim Khuyết Tả Tướng Phục bước qua, giẫm đạp. Không để kinh nửa trên nửa Ma Quan đế Thiên Tôn (Ngọc Hoàng Cốt Tủy dưới ở bàn kinh. Không cúng đồ mặn, không uống Chơn kinh). rượu. Không gian, tham, sàm, nịnh. - Cái Thiên Cổ Phật Chiêu Minh Dực Hớn 2.7. Liễn thờ Quan Thánh Đế Quân trong Thiên Tôn (Minh Thánh kinh - Đình Hầu Quan đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa Thánh Đại Đế sắc lệnh). Tại nhà riêng cảu tín đồ bổn đạo thường thờ 2.5. Lễ cúng liễn 2 câu theo thể thất ngôn Trong các chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa, tín đồ bổn “Chí tại Xuân Thu công tại Hớn đạo cúng lễ vía Ông vào 2 ngày là 13 tháng Giêng Trung đồng nhật nguyệt nghĩa đồng thiên” Âm lịch (ngày hiển thánh) và 24 tháng 6 Âm lịch (ngày sanh) hằng năm. Dịch nghĩa: Trong lễ vía quan trọng nhất là sớ Ông do Lập chí ở kinh Xuân Thu, lập công cho Đức Bổn Sư truyền dạy, được các cư sĩ kế truyền nhà Hán y theo di huấn của Đức Bổn Sư để lại. Phẩm vật Lòng trung sáng tựa như mặt trời, mặt trăng. cúng: Hương, đăng, hoa, trà, quả, phẩm. Đặc biệt Nghĩa sánh như trời. bàn thờ ông không có lư hương vì quan niệm Ông “Tinh trung tứ tiết xưng quan thánh sẽ tái hạ phàm, còn trở xuống trần thế cứu nhơn Chí khí đại từ phật già lam” giúp vật, mà dùng chỉ hương trầm, hương hoa Dịch nghĩa: dâng cúng. Lòng trung của ông soi suốt bốn mùa Lễ cúng diễn ra vào giờ Ngọ (11 giờ đến 13 Lòng từ bi của ông to lớn được phong danh giờ chiều) rất long trọng và trang nghiêm, các tín hiệu phật già lam. đồ có mặt đông đủ, quần áo chỉnh tề, thành tâm “Nhất điểm tâm trung xung nhựt nguyệt khấn vái, đọc tụng. Nghi thức cúng vía ông cũng giống như nghi thức cúng các vị phật khác. Thiên thu nghĩa khí quán càn khôn” 2.6. Kiêng kị Dịch nghĩa: Trong bổn đạo, tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa đa Lòng trung có một sánh tựa trời đất số đều ăn chay trường, chay kì, kiêng cữ không Ngàn năm nghĩa khí bao trùm vũ trụ. ăn thịt 12 con giáp: chuột, trâu, cọp, mèo, rồng, Còn ở chùa thờ liễn 4 câu với ý nghĩa sâu rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, heo. Đặc biệt trong rộng hơn, cần uyên bác để tín đồ tự thân chiêm Đào Viên Minh Thánh Kinh phần bửu cáo Quan nghiệm mỗi khi đảnh lễ. Thánh đại đế của bổn đạo có câu: “Số định tam phân phò hớn thất tiểu ngô “Bất thực Ngưu, Khuyển đẳng nhục phạt ngụy Khả miểng lao ngục tù hình Tân khổ bị thường vị liễu bình sanh sự nghiệp Nam nữ tuân phụng đế ngữ Oai linh phi chấn chí hườn đương nhựt Ngộ nạn đế ngự giáng lâm” [2, tr. 10] tinh trung Dịch nghĩa: Chí tồn nhất thống tá hy triều phục ma Thịt trâu, chó không nên dùng tới đảng khấu”. 105 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019) 3. Kết luận hình mẫu tu nhân mà bổn đạo hướng tới. Do đó, Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một tôn giáo nội sinh ông được thờ tại vị trí trang trọng tại chùa cũng được hình thành trên đất Nam Bộ cách nay như tất cả bàn thờ trong gia đình tín đồ Tứ Ân khoảng 150 năm. Giáo lí cốt lõi của đạo là tu Hiếu Nghĩa. Ông là biểu tượng tinh thần, là tấm nhân - học Phật, trong đó xem tu nhân là con gương cho tín đồ học hỏi, noi theo tu tâm dưỡng đường trước tiên mà tín đồ phải trải qua vì con tánh thực hành tứ ân. Nói về ông là nói về đức người trước tiên phải làm người tử tế sau mới độ, phẩm hạnh của bậc quân tử chứ không hề có thể làm nên bậc thánh hiền. Quan Thánh Đế phân biệt đất nước, màu da hay dân tộc. Tinh Quân, tức Quan Vũ - một nhân vật thời Tam thần trung cang nghĩa khí ấy được giữ gìn và Quốc của Trung Quốc là một nhân vật hội đủ tôi luyện mãi trong lòng người đạo Tứ Ân Hiếu các đức tính cần thiết cho một con người theo Nghĩa đến các thế hệ mai sau./. Tài liệu tham khảo [1]. Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ ân Hiếu Nghĩa của người Việt ở Nam Bộ 1867-1975, NXB Trẻ. [2]. Ngô Lợi, Minh Thánh kinh, tài liệu bản in lưu hành trong tín đồ bổn đạo. [3]. Minh Thánh kinh diễn nghĩa, tài liệu bản in lưu hành trong tín đồ bổn đạo THE RITUALS OF WORSHIPING GUAN SHENG DI JUN IN TU AN HIEU NGHIA RELIGION Summary Tu An Hieu Nghia is an indigenous religion founded by Mr. Ngo Loi in Southern Vietnam around the mid nineteenth century. The mandate of this religion is “Virtue cultivating - Buddhist learning”. For Buddhist learning, the followers always have Three Jewels altars in their houses. For virtue cultivating, they have been taught to worship Guan Sheng Di Jun image. Worshiping Guan Yu concretely refl ects the Hieu-Nghia philosophy of this religion due to the link between the worshiped character’s qualities and the requirement for Hieu-Nghia cultivation. The paper presents the causes, meanings and rituals worshiping Guan Yu in the follower families via specifying altars, jars, taboos, rituals and anniversary trophies. Keyword: Tu An Hieu Nghĩa, Guan Sheng Di Jun, indigenous religions, Guan Yu worship. Ngày nhận bài: 18/9/2018; Ngày nhận lại: 26/11/2019; Ngày duyệt đăng: 20/2/2019. 106
File đính kèm:
- nghi_thuc_tho_quan_thanh_de_quan_trong_dao_tu_an_hieu_nghia.pdf