Năng suất lao động của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Năng suất lao động là một yếu tố quan trọng góp phần vào tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững và tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hiện nay, năng
suất lao động của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao tuy nhiên giá trị tuyệt đối thấp và có sự
chênh lệch lớn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào các hiệp định thương mại tự do FTA c ng là điều kiện
thuận lợi thúc đẩy cải thiện năng suất lao động thông qua thúc đẩy xuất khẩu, thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, đồng thời c ng đặt ra nhiều thách thức trong việc thu hẹp
khoảng cách chênh lệch với các quốc gia trên thế giới. Bài viết tập trung nghiên cứu và phân
tích thực trạng năng suất lao động của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế. Trên cơ sở
đó gợi ý một số giải pháp nh m cải thiện năng suất lao động của Việt Nam trong điều kiện
tham gia vào nền kinh tế toàn cầu hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng suất lao động của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
c động làm tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam – là cơ hội tận dụng 1114 sức lan tỏa của FDI đến các doanh nghiệp trong nước. Theo đánh giá của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF), các FTA thế hệ mới, đặc biệt là hiệp định Đối tác và Toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và hiệp định Thương mại tự do Việt Nam -EU (EVFTA) sẽ có tác động tích cực tới lao động, trong đó những ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày là những ngành dự báo sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Hơn nữa, NCIF cũng đã xây dựng kịch bản nhằm dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2021 – 2025. Trong đó, đối với kịch bản cơ sở, dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam đạt khoảng 7%, năng suất lao động cải thiện hơn với tốc độ tăng khoảng 6,3%/năm. (NCIF, 2019) Tuy nhiên, các cơ hội đến từ FTA thế hệ mới cần được khai thác triệt để nhằm thúc đẩy tăng trưởng, tăng năng suất lao động. Một trong những FTA được đánh giá có triển vọng tác động đến nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam chính là AEC 2015. Tuy nhiên, theo nhiều đánh giá hiện nay, tác động này không lớn, nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn đang ở trình độ chưa cao, chưa đáp ứng được những yêu cầu theo AEC. Do đó, trong quá trình hội nhập kinh tế sâu và rộng như hiện nay, Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ nhằm tận dụng được lợi thế của các FTA để thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. 4. Một số thảo luận và giải pháp nhằm cải thiện NSLĐ Việt Nam trong điều kiện hội nhập Năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua tiếp tục được cải thiện theo hướng tăng dần qua các năm và có tốc độ tăng trưởng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Đóng góp của NSLĐ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Tuy nhiên, NSLĐ còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Các khu vực kinh tế và loại hình doanh nghiệp cũng có sự khác biệt trong NSLĐ. Đối với khu vực kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có mức NSLĐ thấp nhất; khu vực công nghiệp và xây dựng có mức NSLĐ cao nhưng chưa phát huy hết vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đối với các loại hình doanh nghiệp, NSLĐ của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đạt thấp nhất và khoảng cách giữa NSLĐ của các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với doanh nghiệp ngoài Nhà nước là khá cao và ngày càng nới rộng. Điều này sẽ tạo ra những khó khăn, thách thức của các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyên nhân của tình trạng này được đánh giá dựa trên một số yếu tố cơ bản tác động đến năng suất lao động bao gồm: chuyển dịch cơ cấu lao động, công nghệ, chất lượng nguồn lực, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực nhưng vẫn còn chậm Theo Tổng cục thống kê, đóng góp của chuyển dịch cơ cấu lao động vào tăng NSLĐ ở nước ta vẫn ở mức cao nhưng có xu hướng giảm, tỷ lệ này trong giai đoạn 2011-2017 đạt 39%, thấp hơn mức 54% của giai đoạn 2000-2010. Hơn nữa, mặc dù quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời gian qua diễn ra nhanh chóng nhưng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản còn lớn, đa số lao động trong khu vực này là lao động giản đơn, công việc có tính thời vụ, không ổn định nên 1115 giá trị gia tăng tạo ra thấp, dẫn đến NSLĐ thấp. Số liệu của Tổng cục thống kê cho thấy, tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 48,4% năm 2011 xuống còn 37,7% năm 2018 (trung bình mỗi năm giảm 1,5 điểm phần trăm) nhưng vẫn lớn hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Đến năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có khoảng 20,5 triệu lao động làm việc với NSLĐ chỉ đạt 39,8 triệu đồng/lao động, bằng 38,9% mức NSLĐ chung của nền kinh tế; bằng 30,4% NSLĐ khu vực công nghiệp, xây dựng và bằng 33,7% NSLĐ khu vực dịch vụ. Chất lượng nguồn lao động còn thấp Hiện nay, mặc dù số lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo tăng dần qua các năm nhưng tỷ lệ này còn thấp. Năm 2011 tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 15,4%, năm 2018 đạt 21,9%. Ngoài ra, cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo của nước ta còn bất hợp lý, năm 2015 tỷ lệ tương quan giữa trình độ đại học trở lên - cao đẳng - trung cấp - sơ cấp tương ứng là: 1-0,35-0,63-0,38, điều này sẽ cho thấy sự thiếu hụt kỹ sư thực hành và công nhân kỹ thuật bậc cao. Hơn nữa, so với các nước trong khu vực thì người lao động Việt Nam chỉ đảm nhận các công đoạn hoàn thiện theo mẫu trong quá trình sản xuất. Mặc dù, lực lượng lao động nhiều nhưng người lao động chỉ đảm nhận những công việc gia công, không tạo ra sản phẩm có thương hiệu. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chưa cao Hiện nay, các doanh nghiệp ngoài Nhà nước chiếm tỷ trọng cao trong tổng số doanh nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ nên gặp hạn chế trong việc nâng cao NSLĐ do khó tiếp cận và ứng dụng công nghệ vào sản xuất, tiếp cận tín dụng chính thức hạn chế, thiếu lao động có kỹ năng, khó tham gia và học hỏi từ chuỗi giá trị do các doanh nghiệp FDI dẫn dắt và không khai thác được hiệu quả kinh tế nhờ lợi thế về quy mô,.. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong thời gian qua luôn có tác động tích cực đến cải thiện NSLĐ thông qua việc các doanh nghiệp này mang công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến vào đầu tư trong nước (Tổng cục thống kê, 2019a). Tuy nhiên, theo Báo cáo năm 2017 của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ các doanh nghiệp nước ngoài sử dụng nguyên vật liệu làm đầu vào trong nước ở Việt Nam đạt 67,6%, thấp hơn nhiều so với một số nước như Trung Quốc (97,2%); Ma-lai-xi-a (99,9%) hay Thái Lan (96,4%) (WB, 2017). Hơn nữa, tác động lan tỏa của các doanh nghiệp FDI đến các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa sâu. Các doanh nghiệp nội địa hầu như chưa kết nối được vào chuỗi giá trị toàn cầu của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia lớn nên chưa tận dụng được tính lan toả của tri thức, công nghệ và NSLĐ từ các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia vào DN trong nước; những DN tham gia xuất, nhập khẩu có NSLĐ cao hơn 35% so với DN không có hoạt động này. Ngoài ra, quá trình cổ phần DNNN còn chưa được như mong muốn, việc phân bổ nguồn lực của các DNNN còn hạn chế. Việc nâng cao năng suất lao động hiện nay là một yêu cầu tất yếu nhằm thúc đẩy tăng trưởng cao, bền vững; nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, cần phải có các giải pháp nhằm khắc phục 1116 các nguyên nhân cơ bản trên. Một số giải pháp có thể đưa ra nhằm cải thiện năng suất lao động theo hướng đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng thời chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực; nâng cao chất lượng lao động; tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân. Cần tập trung hai nhóm giải pháp như sau: Thứ nhất, giải pháp của Nhà nước - Tăng cường vai trò của Chính phủ theo hướng Chính phủ kiến tạo trong việc cải thiện năng suất lao động. Cần tiếp tục cải cách bộ máy, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, xây dựng chính phủ điện tử, nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ. - Xây dựng và thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về nâng cao NSLĐ của Việt Nam với mục tiêu chung và cụ thể trong từng giai đoạn để NSLĐ của Việt Nam bắt kịp các nước trong khu vực. - Thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng,... đối với các doanh nghiệp sử dụng dây chuyền công nghệ cao, hiện đại;có các chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu để tăng năng suất nhằm tận dụng được cơ hội của CMCN 4.0. - Chính phủ cần đổi mới phương thức thu hút đầu tư nước ngoài, tập trung thu hút các nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu thế giới, các nước nắm giữ công nghệ nguồn có năng lực quản trị hiện đại, năng lực cạnh tranh cao đầu tư vào Việt Nam. Hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp tạo liên kết chặt chẽ với khu vực FDI, tăng cường chuyển giao công nghệ, tăng tỷ lệ nội địa hóa, tỷ trọng cung ứng sản phẩm, linh kiện, chi tiết nội địa cho các doanh nghiệp FDI. - Tiếp tục tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tiếp tục đẩy nhanh hơn nữa quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước với việc cổ phần hoá và cải tiến quản trị doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp này. - Cải cách chính sách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù hợp giữa tăng tiền lương và tăng NSLĐ. Tăng cường chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động trong các doanh nghiệp, nhất là lao động trong các khu công nghiệp. - Cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng đầu tư phát triển công nghệ mới. Thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn để chuyển nhanh lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ có năng suất cao hơn. - Chính phủ cần có các chính sách thúc đẩy quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt tận dụng lợi thế hội nhập trong giáo dục đào tạo nhằm đổi mới đào tạo phù hợp với nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài. - Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại đã ký kết, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường, liên kết với các tập đoàn nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp công nghệ phát triển sản phẩm mới, tham gia đấu thầu mua sắm công, tạo thị trường hỗ trợ phát triển. 1117 Thứ hai, giải pháp của các doanh nghiệp - Lựa chọn quy mô phù hợp, phát triển những sản phẩm mới có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Giữ vững các thị trường truyền thống và từng bước thâm nhập vào các thị trường hoặc những phân đoạn thị trường cao cấp. - Đổi mới tư duy nâng cao năng suất lao động theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các chương trình hỗ trợ chuyển giao, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. - Tập trung đào tạo kỹ năng cho người lao động; tổ chức lại lao động, trong đó chú trọng kết hợp hiệu quả giữa lao động và người máy theo từng công đoạn sản xuất, giúp tăng NSLĐ. - Nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân, trong đó chú trọng đào tạo kiến thức, kỹ năng quản trị hiện đại, chuyên nghiệp; ngoại ngữ, tin học và quản lý hệ thống thông tin doanh nghiệp cho các nhà quản trị doanh nghiệp và doanh nhân. - Cần chủ động tận dụng sự kết nối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thực hiện được chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa, tích hợp công nghệ tiên tiến. - Cung cấp sản phẩm hướng tới nhu cầu của người tiêu dùng, nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Kết luận Năng suất lao động có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy tăng năng suất của nền kinh tế và doanh nghiệp, đặc biệt là năng suất lao động. Ngược lại, năng suất lao động được nâng cao sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Hiện nay ở Việt Nam, tốc độ tăng năng suất lao động toàn bộ nền kinh tế, các khu vực kinh tế và các doanh nghiệp tăng cao. Tuy nhiên, giá trị của năng suất lao động lại thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới; có khoảng cách lớn về năng suất lao động giữa các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề này chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động còn diễn ra chậm; chất lượng nguồn lực còn thấp và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp chưa cao, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Để cải thiện được năng suất lao động, cần phải có các giải pháp đồng bộ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp theo hướng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động từ ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản sang các ngành công nghiệp và dịch vụ; nâng cao chất lượng lao động; tăng cường khả năng cạnh tranh và năng suất lao động của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1118 TÀI LIỆU THAM KHẢO Adenikinju, A. F., & Chete, L. N. (2002). Productivity, market structure and trade liberalization in nigeria. Amiti, M., & Konings, J. (2007). Trade liberalization, intermediate inputs, and productivity: Evidence from indonesia. 97(5), 1611-1638. doi:10.1257/aer.97.5.1611 APO. (2019). Apo productivity databook 2019. Retrieved from Baldwin, J. R., & Gu, W. (2004). Trade liberalization: Export-market participation, productivity growth, and innovation. Oxford Review of Economic Policy, 20(3), 372-392. doi:10.1093/oxrep/grh022 Bộ Kế hoạch và đầu tư. (2019). Năng suất lao động và giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng năng suất lao động của việt nam. Retrieved from Hashim, D., & Banga, R. (2009). Impact of trade on labour productivity and wage inequality in india. Nassif, A. (2006). Measuring the sources of labour productivity change in the brazilian manufacturing plants: The role of trade liberalization and the macroeconomic environment. (2006). NCIF. (2019). Triển vọng kinh tế việt nam giai đoạn 2021-2025: Cơ hội và thách thức từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Retrieved from Ngô Hoàng Thảo Trang. (2018). Năng suất của doanh nghiệp nh và vừa ở việt nam: Vai trò của xuất khẩu, hoạt động đổi mới và môi trường kinh doanh. Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Nguyễn Thắng, Nguyễn Tiên Phong, & Lê Văn Hùng. (2019). Năng suất và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp việt nam. Retrieved from Tổng cục Thống kê. (2016). Năng suất lao động của việt nam: Thực trạng và giải pháp. Retrieved from Tổng cục thống kê. (2018). Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018. Retrieved from https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19454 Tổng cục thống kê. (2019a). Thông cáo báo chí tại hội nghị ―cải thiện năng suất lao động quốc gia‖. Retrieved from https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid= 382&idmid=2&ItemID=19315 Tổng cục thống kê. (2019b). Tình hình kinh tế - xã hội quý iv và năm 2019. Retrieved from https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19454 Topalova, P., & Khandelwal, A. (2011). Trade liberalization and firm productivity: The case of india. 93(3), 995-1009. doi:10.1162/REST_a_00095 Viện năng suất Việt Nam. (2018). Báo cáo năng suất việt nam 2017. Retrieved from Hà Nội: WB. (2017). Việt nam: Tăng cường năng lực cạnh tranh và liên kết của doanh nghiệp vừa và nh - bài học kinh nghiệm trong nước và quốc tế. Retrieved from
File đính kèm:
- nang_suat_lao_dong_cua_viet_nam_trong_dieu_kien_hoi_nhap_kin.pdf