Nâng cao hiệu quả ứng dụng kế toán quản trị chi phí tại Công ty Cổ phần Thiết kế và Xây lắp Dầu khí Phú Sĩ
Tổ chức kế toán quản trị chi phí được xem như là công cụ nhằm theo dõi,
kiểm soát chặt chẽ chi phí phát sinh giúp nhà quản trị đưa ra được những
quyết định đúng đắn, hợp lý. Tuy nhiên, tổ chức kế toán quản trị chi phí ở
Công ty cổ phần Thiết kế và Xây lắp Dầu khí Phú Sĩ (FUJI) hiện nay đang
tồn tại khá nhiều bất cập. Bài viết đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác tổ chức kế toán quản trị chi phí tại công ty này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao hiệu quả ứng dụng kế toán quản trị chi phí tại Công ty Cổ phần Thiết kế và Xây lắp Dầu khí Phú Sĩ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao hiệu quả ứng dụng kế toán quản trị chi phí tại Công ty Cổ phần Thiết kế và Xây lắp Dầu khí Phú Sĩ
u khi trừ đi phần thuế và lãi định mức, các DN xây dựng xác định được giá thành dự toán xây dựng công trình. Lập dự toán chi tiết cho các công trình, hạng mục công trình đòi hỏi tập hợp chi phí sản xuất thực tế phát sinh phải được thực hiện theo từng khoản mục chi phí để có thể dễ dàng kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện dự toán chi phí. 4.2. Giải pháp hoàn thiện 4.2.1 Hoàn thiện tổ chức bộ máy KTQT chi phí Về cơ bản, trong hoạt động của DN hiện nay, có 3 mô hình kế toán cơ bản: Mô hình phân tán, mô hình tập trung và mô hình hỗn hợp. Dù chọn mô hình nào, DN cũng cần chú trọng việc yếu tố phù hợp với quy mô, năng lực tài chính, năng lực quản trị của mình. Đối với công ty, mô hình kết hợp giữa kế toán tài chính và KTQT chi phí sản xuất trong cùng một bộ máy kế toán là mô hình phù hợp trong điều kiện hiện nay. Với mô hình này, bộ phận kế toán chi phí của kế toán tài chính căn cứ vào chứng từ để hạch toán chi phí sản xuất phát sinh của DN theo từng yếu tố chi phí, cung cấp số liệu phục vụ lập báo cáo kết quả kinh doanh và bảng Thuyết minh Báo cáo tài chính. Lê Thế Anh (2018) cũng cho rằng, trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm các DN xây lắp Việt Nam thì mô hình kết hợp là phù hợp và hiệu quả. Mô hình kết hợp là sự gắn kết hệ thống KTQT chi phí với hệ thống kế toán tài chính trong cùng một hệ thống kế toán thống nhất. Theo mô hình này, KTQT chi phí là một bộ phận của kế toán DN. Mô hình KTQT chi phí kết hợp sẽ thu thập, xử lý và cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời cho các nhà quản trị. Trong mô hình này, không (Nguồn: Phòng Kế toán CTCP Thiết kế và xây lắp dầu khí Phú Sĩ) Bảng 1. Mẫu phân loại chi phí theo khoản mục giá thành Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/2020 67 Nghiên cứu trao đổi có sự phân chia giữa KTQT chi phí và kế toán tài chính nhưng có sự phân công nhiệm vụ cho các bộ phận kế toán. Người làm kế toán ở các bộ phận thực hiện đồng thời cả công việc của KTQT chi phí và công việc của kế toán tài chính. Bộ máy kế toán của DN xây lắp bao gồm hai bộ phận: Kế toán tài chính và KTQT chi phí sẽ tiết kiệm chi phí vận hành nhưng vẫn đảm tính hiệu quả của chức năng thông tin (Hình 1). 4.2.2. Xây dựng định mức chi phí tiêu hao và hoạch định chi phí Định mức chi phí là khoản chi được định trước bằng cách lập ra những tiêu chuẩn gắn với từng trường hợp hay từng điều kiện làm việc cụ thể. Định mức chi phí không những chỉ ra được các khoản chi dự kiến mà còn xác định nên chi trong trường hợp nào. Tuy nhiên, trong thực tế chi phí luôn thay đổi, vì vậy các định mức cần phải được xem xét lại thường xuyên để đảm bảo tính hợp lý của chúng. Để công tác định mức chi tiêu được tốt, chúng ta cần nhiều kênh thông tin khác nhau, cụ thể như sau: + Tiêu chuẩn kỹ thuật (kỹ thuật cung cấp). + Chi phí thực tế nhiều kỳ (kế toán cung cấp). + Dự toán chi phí (kế toán cung cấp). DN cần định mức cả về giá lẫn về lượng vì sự biến đổi của hai yếu tố này đều tác động đến sự thay đổi của chi phí: a, Định mức giá: Định mức giá được ước lượng bằng cách tổng cộng tất cả các khoản chi phí liên quan đến việc mua hàng hay nguyên vật liệu (đối với định mức giá nguyên vật liệu) hay lương và các chi phí liên quan (đối với định mức chi phí lao động hay còn gọi là định mức lương). b, Định mức lượng: Để xây dựng và thực hiện hệ thống định mức lượng, công ty cần phải quyết định: + Số lượng, chủng loại và thành phần kết hợp các nguyên vật liệu để tạo ra từng loại sản phẩm. + Lượng và loại lao động để sản xuất bất kỳ một sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ nào đó. Những định mức kỹ thuật này thường do các chuyên gia lập ra và đòi hỏi phải có những kỹ năng làm việc như nghiên cứu phương pháp làm việc và xây dựng các chỉ tiêu đánh giá từng công việc cụ thể. Khi định mức lượng, Công ty có thể dùng hai loại định mức sau: Định mức lý tưởng là loại định mức được xây dựng dựa trên điều kiện làm việc hoàn hảo. Tuy nhiên, điều kiện hoàn hảo này gần như không có được ở hầu hết các DN, do những nguyên nhân nằm ngoài tầm kiểm soát của một tổ chức. Định mức lý tưởng có thể giúp nhà quản lý thấy rõ những điểm khác biệt chính, tuy nhiên khó áp dụng trong thực tế. c, Định mức dự kiến (định mức thực tế): Loại định mức này thường dễ áp dụng hơn định mức lý tưởng. Đây là các định mức mang tính chất thực tế, vì chúng cho phép một mức độ sai lệch chấp nhận khi thực hiện. Nếu người thực hiện chi phí được quản lý tốt và sẵn sàng hợp tác thì DN dễ đạt được định mức dự kiến. 4.2.3. Phân tích biến động chi phí thực tế so với định mức. Chi phí phát sinh thực tế có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với định mức ban đầu, điều này tạo nên sự biến động chi phí so với định mức. Biến động có thể là bất lợi khi chi phí thực tế cao hơn chi phí định mức hoặc có lợi khi chi phí thực tế thấp hơn chi phí định mức. Mục đích phân tích biến động các khoản mục chi phí, nhằm đánh giá chung mức chênh lệch giữa thực tế so với định mức để làm rõ mức tiết kiệm hay vượt chi của từng khoản mục chi phí phát sinh. Công ty cần phân tích biến động của một số loại chi phí sau: a, Phân tích các biến động chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là một loại biến phí, khi chi phí nguyên vật liệu thực tế khác với định mức chi phí nguyên vật liệu thì ta gọi mức chênh lệch đó là biến động chi phí nguyên vật liệu. Sự biến động này gồm biến động lượng sử dụng và biến động giá nguyên vật liệu. Trong thực tế, sự biến động giá phụ thuộc vào cả nguyên nhân khách quan (quan hệ cung cầu thay đổi trên thị trường, sự thay đổi Hình 1 Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/202068 Nghiên cứu trao đổi chính sách của Nhà nước) và nguyên nhân chủ quan (chọn chất lượng hàng mua, phương pháp tính trị giá nguyên liệu xuất kho). Biến động về lượng nguyên vật liệu sử dụng phụ thuộc vào trình độ quản lý nguyên vật liệu, tay nghề của công nhân trực tiếp sản xuất, tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị, điều kiện nơi sản xuất, Sự phân tích các biến động nói trên phải được tiến hành càng sớm càng tốt, nhằm phát hiện kịp thời những bất hợp lý để điều chỉnh nhằm tìm ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi phí nguyên vật liệu. b, Phân tích các biến động chi phí lao động trực tiếp: Chi phí lao động trực tiếp là một loại biến phí, vì vậy việc phân tích các biến động của nó cũng dùng mô hình chung về phân tích biến động biến phí. Biến động chi phí lao động trực tiếp có thể chi tiết hóa như sau: + Biến động năng suất lao động. + Biến động thời gian nhàn rỗi (ngừng sản xuất). + Biến động đơn giá tiền lương. Biến động năng suất phụ thuộc vào công nhân phải mất thời gian sản xuất nhiều hay ít hơn so với định mức. Nhà quản lý cần đặc biệt quan tâm về biến động năng suất bất lợi, xác định rõ người chịu trách nhiệm và lý do vì sao thời gian sản xuất lại kéo dài. Năng suất lao động tăng hay giảm có thể thường do ảnh hưởng của các nguyên nhân: + Sự thay đổi cơ cấu lao động; + Năng suất lao động cá biệt; + Tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị; + Chất lượng của nguyên liệu được sử dụng; + Các biện pháp quản lý sản xuất; + Chính sách trả lương cho công nhân. Biến động thời gian nhàn rỗi hay còn gọi là biến động chi phí thời gian xảy ra khi thời gian công nhân không có công việc để làm lâu hơn so với dự kiến. Biến động lương xảy ra khi Công ty phải trả lương thực tế cho công nhân cao hơn hoặc thấp hơn so với dự kiến. Đơn giá tiền lương tăng do nhiều nguyên nhân, có thể tổng hợp thành hai nguyên nhân: + Do đơn giá tiền lương của các bậc thợ tăng lên; + Sự thay đổi về cơ cấu lao động. Tiền lương tăng lên khi cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng công nhân bậc cao và giảm tỷ trọng công nhân bậc thấp, tính trên tổng số giờ lao động được sử dụng. c, Phân tích biến động của chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung là một loại chi phí khá phức tạp, bởi nó là một chi phí gián tiếp với nhiều loại chi phí khác nhau về tính chất và được tính vào giá thành các sản phẩm thông qua sự phân bổ, vì vậy sẽ không có một mô hình duy nhất về phương pháp để phân tích chung cho công ty. Thông thường, phân tích biến động chi phí sản xuất chung được thực hiện như sau: + Phân tích biến động chi phí sản xuất chung khả biến: Theo mô hình phân tích biến phí đã trình bày ở trên, thì sự tăng giảm chi phí sản xuất chung khả biến so giữa thực tế và định mức (hay dự toán) có thể chia thành hai loại biến động: Biến động giá và biến động năng suất. + Phân tích biến động chi phí sản xuất chung bất biến: Đặc điểm cơ bản của chi phí bất biến là không thay đổi cùng với những thay đổi của các mức độ hoạt động. Do vậy, khi phân tích chi phí sản xuất chung bất biến cần lưu ý một số điểm sau: Mọi sự chia nhỏ định phí đều có bản chất giả tạo vì chúng không phụ thuộc vào mức hoạt động. Xây dựng đơn giá phân bổ định phí sản xuất chung là cần thiết cho quá trình tính toán biến động nhưng không có giá trị đối với việc kiểm soát chi phí đặt trong mối quan hệ với mức hoạt động. Vì những lý do này, biến động chi phí sản xuất chung bất biến thường được biểu hiện dưới dạng vật chất thay vì tiền tệ. Sự thể hiện các biến động dưới hình thái vật chất sẽ cung cấp cho nhà quản lý một cách rõ ràng và cụ thể hơn nguyên nhân biến động, từ đó sẽ có biện pháp kiểm soát biến động hữu hiệu hơn. Ngoài ra, để có thể kiểm soát các loại chi phí khác, nhà quản lý còn có thể tiến hành phân tích sự biến động của chi phí hàng tồn kho, chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN. 4.2.4. Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu quản trị chi phí xây dựng Hệ thống chỉ tiêu quản trị chi phí xây dựng phục vụ mục tiêu kiểm soát chi phí xây dựng bao gồm: Nhóm các chỉ tiêu tổng quát gồm: Tổng chi phí của hợp đồng xây dựng hoặc từng hợp đồng. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu chi phí như: Tỷ trọng CPN- VLTT, CPNCTT, CPSDMTC và CPSXC, tỷ trọng biến phí xây dựng, tỷ trọng định phí xây dựng. Các chỉ tiêu này có thể tính cho từng hoạt động xây dựng, từng công trình hoặc từng hạng mục công trình hay từng trung tâm chi phí. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu quản trị chi phí xây dựng phục vụ mục tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các trung tâm chi phí. Trong DN xây dựng, trung tâm chi phí thường là các xí nghiệp, các tổ, đội thi công hay công ty xây dựng. Các chỉ tiêu quản trị được sử dụng là: Tỷ suất CPNVLTT, CP- NCTT, CPSCMTC, CPSXC trong tổng chi phí hoạt động xây dựng tại từng xí nghiệp, tổ, đội thi công; tỷ suất biến phí, định phí trong tổng chi phí hoạt động xây dựng tại xí nghiệp, tổ, đội thi công. Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/2020 69 Nghiên cứu trao đổi 4.2.5. Hoàn thiện xác định phạm vi và phân loại chi phí xây dựng phục vụ cho quản trị chi phí Ngoài các cách phân loại chi phí đang được áp dụng hiện nay thì cần phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động. Điều này có nghĩa là khi mức độ của khối lượng hoạt động biến động thì chi phí sẽ biến động như thế nào, biến động bao nhiêu và loại nào biến động để tương ứng với biến động của mức độ hoạt động. Đây là cách nhận diện chi phí cần có sự quan tâm đặc biệt trong KTQT để phục vụ cho quá trình phân tích, đánh giá và sử dụng thông tin phục vụ cho việc ra quyết định. Phần lớn quá trình lập kế hoạch và ra quyết định phụ thuộc vào việc phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí. Nhà quản trị muốn có thông tin tối ưu nhất, để đưa ra các quyết định sáng suốt trong sản xuất – kinhd oanh thì phải thấu hiểu về cách ứng xử của chi phí theo khối lượng hoạt động. Theo mối quan hệ với khối lượng thì toàn bộ chi phí sản xuất chia thành chi phí khả biến, chi phí bất biến và chi phí hỗn hợp. Khi tổng chi phí của DN được chia thành chi phí khả biến và chi phí bất biến, sẽ giúp nhân viên KTQT sử dụng cách ứng xử của chi phí để lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo số dư đảm phí. Đây là một báo cáo nội bộ quan trọng, một công cụ đắc lực cho việc ra quyết định (Bảng 2). 4.3. Kiến nghị với các cơ quan chức năng liên quan 4.3.1 Kiến nghị với Bộ Tài chính Hiện tại, văn bản pháp lý về KTQT mới chỉ dừng lại ở Luật Kế toán số 88/2015/QH13, ban hành ngày 20/11/2015 bằng việc đưa ra khái niệm KTQT và mới chỉ có Thông tư 53/2006/TT-BTC, hướng dẫn KTQT cho các DN. Nội dung của Thông tư 53/2006 hướng dẫn chi tiết hóa cho KTQT hơn là việc hướng dẫn xây dựng, phát triển KTQT ở các DN theo đúng bản chất của nó. Do đó, để công tác KTQT ở các DN nói chung và các DN xây dựng giao thông nói riêng hoạt động phát huy được vai trò cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh thì Bộ Tài chính cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn nhằm giúp các DN xây dựng KTQT phù hợp, hữu ích cho hoạt động của DN. Mặt khác, không nên ràng buộc và can thiệp quá sâu vào nghiệp vụ kỹ thuật KTQT chi phí của DN vì thông tin KTQT mang tính nội bộ của DN. 4.3.2 Kiến nghị với Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam cần tạo điều kiện hỗ trợ các DN, trong việc tổ chức thực hiện KTQTCP. Hội có thể tổ chức các khóa tập huấn cho lãnh đạo các DN nhận thức được vai trò cung cấp thông tin của KTQTCP để họ thay đổi nhận thức, thay đổi cách làm việc và ra quyết định theo cảm tính, theo kinh nghiệm. Hội tổ chức các khóa học nghiệp vụ và nghiệp vụ nâng cao cho KTQT trong các DN, tiến tới tổ chức các kỳ thi để cấp chứng chỉ KTQT viên và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao này. Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam có thể đưa ra một số mô hình tổ chức KTQTCP mẫu phù hợp với từng loại hình DN, từng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, từng quy mô của DN thông qua các buổi hội thảo. Những hoạt động đó, sẽ giúp DN nhận thức được vai trò và tác dụng của KTQTCP cũng như định hướng cho việc tổ chức công tác KTQT phù hợp với DN mình. 4.3.3 Kiến nghị với các cơ sở đào tạo Các cơ sở đào tạo cần có những khảo sát thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, để có những cải tiến chương trình và phương pháp đào tạo chuyên ngành KTQT, theo hướng thực hành và ứng dụng thực tế phù hợp với thông lệ quốc tế. Tài liệu tham khảo [1] Bộ Xây dựng (2010), Thông tư số 04/2010/TT-BXD, ngày 26/5/2010 hướng dẫn lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. [2] Bộ Tài chính (2006), Thông tư 53/2006/TT-BTC, Hướng dẫn áp dụng chế độ KTQT trong DN ngày 12/6/2006; [3] Bộ Tài chính (2014), Thông tư 200/2014TT-BTC, Hướng dẫn chế độ kế toán DN, ngày 22/12/2014; [4] Vũ Thị Kim Anh (2012), “Hoàn thiện KTQT chi phí vận tải tại các DN vận tải đường sắt Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội. [5] TS. Lê Thế Anh (2018), Ứng dụng mô hình KTQT chi phí trong DN xây lắp ở Việt Nam, Đại học Đại Nam. Bảng 2. Phân loại chi phí tại công ty theo cách ứng xử chi phí Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 8/202070 Nghiên cứu trao đổi
File đính kèm:
- nang_cao_hieu_qua_ung_dung_ke_toan_quan_tri_chi_phi_tai_cong.pdf