Một số yếu tố ảnh hưởng đến các hoạt động công tác xã hội tại trung tâm y tế huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum năm 2019
Mục tiêu: Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại Trung tâm Y tế
huyện Đăk Tô năm 2019.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu định tính, thu thập số liệu qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm
trọng tâm.
Kết quả: Hiện đã có văn bản pháp quy định hướng phát triển nghề CTXH, nhưng chưa có hướng dẫn cụ
thể triển khai thực hiện, thiếu văn bản hướng dẫn bố trí biên chế và chuẩn năng lực cho nhân viên CTXH
trong bệnh viện. Ở các bệnh viện quy mô nhỏ, nhân lực hạn chế khiến các dịch vụ CTXH không được
cung cấp liên tục. Thiếu các văn bản hướng dẫn triển khai hoạt động cụ thể và chưa có chương trình, tài
liệu đào tạo cho các đối tượng trong bệnh viện về CTXH nên việc đào tạo thực hiện nghiệp vụ cho nhân
viên CTXH và trang bị các kiến thức cơ bản về CTXH cho nhân viên y tế rất hạn chế, các dịch vụ CTXH
trong bệnh viện chưa được cung cấp hiệu quả.
Khuyến nghị: Bộ Y tế sớm ban hành hướng dẫn về định mức biên chế và cơ cấu các chức danh chuyên
môn CTXH trong các bệnh viện. Xây dựng chuẩn năng lực người làm CTXH tại các cơ sở y tế và chương
trình, tài liệu đào tạo nghiệp vụ CTXH cho các đối tượng khác nhau trong bệnh viện. Đối với Trung tâm
Y tế tuyến huyện cần phân công chuyên trách CTXH, tổ chức đào tạo nghiệp vụ CTXH cho người làm
CTXH để phối hợp thực hiện các hoạt động.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố ảnh hưởng đến các hoạt động công tác xã hội tại trung tâm y tế huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum năm 2019
ời làm chuyên trách CTXH, đơn vị không có biên chế dư để bố trí người nên chỉ vận dụng kiêm nhiệm” (PVS Trưởng phòng TCCB). Đầu tháng 4/2019, nhân viên CTXH cũ nghỉ hưu, thay người mới là điều dưỡng ở trạm y tế xã, giữa hai người cũng có sự khác biệt về kinh nghiệm, kỹ năng xử lý tình huống, sự chủ động và nhiệt tình. “Chị H. mới về hoạt động chưa được nhiệt tình, chưa có nhiều sự chủ động trong thực hiện nhiệm vụ CTXH” (PVS bác sĩ 3). Nhân viên CTXH cũ cho rằng nếu làm tốt hoạt động CTXH sẽ thu hút được nhiều người bệnh đến với TTYT huyện do hoạt động CTXH gắn kết người bệnh với người nhân viên y tế, với bệnh viện. “Nếu nhân viên CTXH làm việc có hiệu quả sẽ thu hút được nhiều người bệnh bởi hoạt động CTXH có sự gắn kết giữa người bệnh với nhân viên y tế và với bệnh viện” (PVS nhân viên CTXH 1). Tuy nhiên chưa có sự phối hợp giữa các thành viên Tổ CTXH nên các hoạt động CTXH không được cung cấp liên tục và có tính nghiệp vụ. “Em phải kiêm nhiệm thêm việc khác phòng giao cho, những người kia nếu rảnh họ giúp, nếu họ bận thì không có người thực hiện các hoạt động CTXH” (PVS nhân viên CTXH 2). Theo nhân viên CTXH, mạng lưới cộng tác viên CTXH ở các khoa là rất cần thiết. “Các cộng tác viên là tai mắt của mình, nắm bắt được tình hình người bệnh báo lên mới có cách hỗ trợ họ” (PVS phụ trách CTXH 2). Hoàng Long Quân và cộng sự 65 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) “Qua tiếp xúc với người bệnh, chúng tôi thấy họ có khó khăn thì báo với nhân viên CTXH để thực hiện hỗ trợ họ” (TLN cộng tác viên CTXH). * Nguồn lực hỗ trợ hoạt động CTXH: Do chưa có quy định bố trí con người, chưa có hướng dẫn cụ thể triển khai các hoạt động CTXH trong bệnh viện nên nguồn lực hỗ trợ các hoạt động CTXH còn rất hạn chế , thiếu các phương tiện, trang thiết bị cho Tổ CTXH; nguồn kinh phí quá ít khiến các hoạt động CTXH gặp nhiều khó khăn. Hoạt động huy động nguồn lực để hỗ trợ CTXH ở TTYT huyện Đăk Tô còn rất hạn chế, chủ yếu mang tính tự phát và chỉ làm khi có trường hợp, nội dung cần huy động. Nguồn lực hỗ trợ cho các hoạt động CTXH từ ngân sách nhà nước chủ yếu hỗ trợ tiền ăn, đi lại cho người nghèo khi đến khám chữa bệnh. TTYT huyện chỉ bố trí khoản kinh phí nhỏ cho các hoạt động CTXH. “Nhà nước chủ yếu hỗ trợ tiền ăn, đi lại cho người nghèo, chị xin mãi lãnh đạo mới đồng ý cho 5 triệu mỗi năm để làm các hoạt động CTXH” (PVS nhân viên CTXH 1). Do không có vị trí việc làm cụ thể, nhân viên CTXH cũng phải dùng chung các trang thiết bị văn phòng với người khác, nên không chủ động được về thời gian khi thực hiện nhiệm vụ CTXH. “Bộ máy vi tính kia Đảng ủy và vài người khác dùng chung, nhiều lúc em muốn làm việc nhưng phải chờ người khác không làm mới được” (PVS nhân viên CTXH 2). * Công tác đào tạo nâng cao năng lực làm CTXH: Theo đánh giá của lãnh đạo TTYT huyện Đăk Tô, việc cho nhân viên CTXH đi đào tạo là cần thiết để triển khai các hoạt động CTXH. Có sự khác nhau giữa nhân viên CTXH cũ – người được đào tạo và nhân viên CTXH mới – người chưa được đào tạo. “Trước có chị T. được đi học về làm việc rất tốt. Mới đây H. thay chị T., chưa được đào tạo, chưa có kinh nghiệm, kỹ năng làm với người bệnh rất khó hiểu” (PVS lãnh đạo). Nhân viên CTXH cũng muốn tập huấn lại cho nhân viên y tế, nhưng do chưa có chương trình, tài liệu đào tạo, mặt khác kỹ năng cũng hạn chế nên chưa đạt hiệu quả. “do không có tài liệu nên chủ yếu giới thiệu sơ để họ nắm được những khái niệm cơ bản về CTXH” (PVS người phụ trách CTXH 1). BÀN LUẬN Cơ sở pháp lý chưa đủ mạnh để phát triển nghề CTXH, các hướng dẫn triển khai hoạt động CTXH trong bệnh viện chưa cụ thể, rõ ràng Từ sau Đề án 32, hoạt động CTXH trong bệnh viện chỉ thay đổi ở các bệnh viện tuyến Trung ương và một số bệnh viện tuyến tỉnh. Thông tư số 43/2015/TT-BYT ra đời là bước ngoặt lớn đối với việc triển khai các hoạt động CTXH trong bệnh viện với các quy định về bắt buộc các bệnh viện phải có Phòng/Tổ CTXH, thành lập mạng lưới cộng tác viên CTXH trong bệnh viện cũng như quy định các nhiệm vụ cụ thể về triển khai các hoạt động CTXH trong bệnh viện, các hoạt động CTXH mới được quan tâm, đầu tư và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ (4 - 6). Thông tư liên tịch số 30/2015/TTLT- BLĐTBXH-BNV của Liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Nội vụ quy Hoàng Long Quân và cộng sự 66 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành CTXH là văn bản quan trọng trong việc bố trí người làm CTXH trong hệ thống ngạch viên chức (7), nhưng hướng dẫn cụ thể về bổ sung biên chế cho các bệnh viện lại chưa có, do đó các bệnh viện không được tăng thêm biên chế cho vị trí nhân viên CTXH, chủ yếu vẫn điều động từ nhân viên y tế ở các vị trí khác để làm CTXH. Quyết định số 2514/QĐ-BYT của Bộ Y tế cũng nêu rõ mục tiêu đến năm 2020 sẽ sửa đổi và ban hành một số các văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết triển khai các hoạt động CTXH trong bệnh viện (6). Tuy nhiên đến nay, ngoài Thông tư số 43/2015/TT-BYT, Bộ Y tế vẫn chưa có văn bản pháp quy hay bản dự thảo về các văn bản để hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm duy trì và phát triển nghề CTXH trong ngành Y tế, nghiên cứu của Lê Minh Hiển và Đoàn Thị Thùy Loan đều chỉ ra rằng nội dung các văn bản hướng dẫn thực hiện CTXH trong bệnh viện chưa sâu, chưa cụ thể, khi triển khai các nội dung vẫn còn gặp nhiều lúng túng, các bệnh viện vẫn vừa học vừa làm, chưa mang tính chuyên nghiệp cao (8 - 10). Thiếu biên chế nhân viên CTXH và nguồn lực cho hoạt động CTXH khiến các dịch vụ CTXH không được cung cấp liên tục Ở TTYT huyện Đăk Tô có sự khác nhau giữa nhân viên CTXH mới và nhân viên CTXH cũ. Nhân viên CTXH cũ có kinh nghiệm, có khả năng giao tiếp, có mong muốn được giúp đỡ mọi người với lòng nhiệt tình và khả năng xử lý những vấn đề vướng mắc trong các mối quan hệ giữa nhân viên y tế với lãnh đạo đơn vị hay giữa nhân viên y tế với người bệnh, do đó nhận được sự tín nhiệm, tin tưởng của nhân viên y tế và thực hiện thành công nhiều hoạt động CTXH như hỗ trợ người bệnh khi đến khám chữa bệnh, kết nối những trường hợp người bệnh có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế với các nhà hảo tâm, là cầu nối tháo gỡ xung đột của nhân viên với lãnh đạo bệnh viện. Theo Hiệp hội nhân viên CTXH thế giới, một trong những phẩm chất của người làm CTXH trong một đơn vị là tinh thần làm việc nhóm (11). Mặc dù Tổ CTXH tại TTYT huyện Đăk Tô có 3 người nhưng các hoạt động CTXH chỉ có nhân viên được giao nhiệm vụ CTXH thực hiện, sự tham gia của các thành viên khác của Tổ CTXH và các cộng tác viên CTXH tại các khoa, phòng rất hạn chế. Khi nhân viên CTXH làm việc khác thì các dịch vụ CTXH cung cấp bị gián đoạn. Bên cạnh đó, ở TTYT huyện thiếu kinh phí và phương tiện để thực hiện hoạt động CTXH, khác với bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh với quy mô và nguồn lực lớn dễ tạo nguồn lực cho các hoạt động CTXH. Xem xét ở các khoản mục chi cho hoạt động CTXH ở các bệnh viện tuyến Trung ương, tuyến tỉnh, các khoản chi cho hỗ trợ chi phí điều trị cho người bệnh, hỗ trợ các trang thiết bị, phương tiện, nấu các suất ăn từ thiện cho người bệnh hoặc tổ chức khám từ thiện tại cộng đồng chiếm tỷ lệ lớn (10, 12, 13). Nguồn kinh phí chủ yếu được huy động từ các nhà hảo tâm. Ở huyện Đăk Tô cũng có một số nhà hảo tâm nhưng họ cũng không có nhiều nguồn lực để hỗ trợ, khi có họ mới hỗ trợ theo đợt mà không liên tục. Việc thiếu những trang thiết bị, phương tiện hỗ trợ thực hiện các hoạt động CTXH có ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng các hoạt động CTXH (14). Thiếu chương trình đào tạo về CTXH phù hợp với các đối tượng trong bệnh viện Cho đến nay, Bộ Y tế chưa ban hành chương trình và tài liệu đào tạo cho người làm CTXH Hoàng Long Quân và cộng sự 67 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) trong bệnh viện theo lộ trình tại Đề án “Phát triển nghề CTXH trong ngành Y tế giai đoạn 2011-2020”. Các khóa đào tạo về CTXH chủ yếu từ các Trường Đại học khối xã hội, cung cấp kiến thức, nghiệp vụ chung cho nhân viên CTXH, chưa chuyên sâu hướng dẫn triển khai các hoạt động đặc thù, cụ thể. Vì thế ở TTYT huyện Đăk Tô, hoạt động CTXH chỉ triển khai rất cơ bản, nhân viên CTXH không thực hiện được các hoạt động chuyên môn sâu, nghiệp vụ về CTXH như hoạt động hỗ trợ về tâm lý, xã hội cho người bệnh và nhân viên y tế, thực hiện các can thiệp CTXH cho cá nhân, nhóm (6, 15). Trình độ nhân viên CTXH ở TTYT huyện Đăk Tô rất hạn chế. Cả 2 nhân viên CTXH đều có trình độ trung cấp, không được đào tạo nghiệp vụ CTXH, họ thực hiện các hoạt động CTXH bằng kinh nghiệm, sự hiểu biết của mình. Khác với ở các bệnh viện tuyến Trung ương có nhiều thuận lợi trong đào tạo CTXH cho các đối tượng, họ có người được đào tạo chuyên sâu, trình độ cao, tự biên soạn chương trình, tài liệu để tổ chức các khóa đào tạo đa dạng về nội dung phù hợp cho nhiều đối tượng (10, 12, 13). Những khó khăn tương tự gặp ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, Tổ CTXH gồm những người chỉ được tập huấn qua khóa ngắn hạn, nền tảng là nhân viên y tế nên không có nhiều hoạt động đào tạo về CTXH cho nhân viên y tế, mặt khác họ cũng thiếu các kỹ năng cần thiết để thực hiện các khóa đào tạo (6, 10). Một khía cạnh khác là khả năng tiếp cận với các cơ sở đào tạo của các TTYT huyện ở vùng khó khăn như tỉnh Kon Tum rất hạn chế về khoảng cách di chuyển, việc cử một người đi đào tạo về CTXH trong khoảng thời gian dài tại các cơ sở có đào tạo CTXH ở TP. Hồ Chí Minh hoặc Hà Nội cũng mất một khoản chi phí không nhỏ so với số ngân sách hạn hẹp của đơn vị. Trong khi tại một bệnh viện, có quá nhiều vấn đề cần ưu tiên hơn so với hoạt động CTXH (16). Hạn chế nghiên cứu Nghiên cứu có hạn chế là thông tin thu được nhanh bão hòa, do ở TTYT huyện, quy mô nhỏ, các hoạt động CTXH triển khai chưa được nhiều so với quy định tại Thông tư số 43/2015/TT-BYT nên thông tin về các hoạt động còn nghèo nàn, không có nhiều nội dung để khai thác sâu ở khía cạnh tích cực cũng như tiêu cực. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động CTXH tại TTYT huyện Đăk Tô là văn bản pháp quy và cơ sở pháp lý chưa thực sự tạo thuận lợi để thực hiện hoạt động nghề nghiệp CTXH trong bệnh viện, chưa có hướng dẫn bố trí chuyên trách CTXH nên các bệnh viện không có biên chế cho người làm CTXH, khiến các dịch vụ CTXH còn thiếu hoặc không được cung cấp liên tục. Thiếu các văn bản hướng dẫn triển khai hoạt động cụ thể nên thiếu nguồn lực hỗ trợ hoạt động CTXH và tổ chức, thực hiện hoạt động CTXH còn lúng túng, chưa hiệu quả. Chưa có chương trình, tài liệu đào tạo cho các đối tượng trong bệnh viện về CTXH nên nhân viên CTXH và nhân viên y tế thiếu các kiến thức cơ bản về CTXH. KHUYẾN NGHỊ Bộ Y tế cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, hướng dẫn về định biên và cơ cấu các chức danh chuyên môn CTXH trong các Hoàng Long Quân và cộng sự 68 Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 01-2020) Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.01-2020) bệnh viện. Xây dựng chuẩn năng lực người làm CTXH tại các cơ sở y tế để làm cơ sở xây dựng chương trình, tài liệu và tổ chức đào tạo nghiệp vụ CTXH cho các đối tượng khác nhau trong bệnh viện. TTYT tuyến huyện cần phân công chuyên trách CTXH, chỉ đạo các bộ phận phối hợp triển khai các hoạt động CTXH và có phương án huy động nguồn kinh phí từ các tổ chức, nhà hảo tâm để phát triển và duy trì các dịch vụ CTXH trong bệnh viện được liên tục, phát triển các dịch vụ CTXH theo hướng chuyên sâu. Lời cảm ơn: Nhóm tác giả xin cảm ơn Trung tâm Y tế huyện Đăk Tô đã tạo điều kiện, hỗ trợ thực hiện nghiên cứu. Cám ơn các thầy, cô Trường Đại học Y tế công cộng đã hướng dẫn, giúp đỡ trong quá trình thực hiện nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Xuân Mai. Giáo trình nhập môn công tác xã hội. Trường Đại học Lao động - Xã hội. 2014. 2. Trần Thị Châu. Lịch sử phát triển công tác xã hội trong bệnh viện trên thế giới và tại Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Công tác xã hội trong bệnh viện - Những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành.38-48. 3. Đỗ Hạnh Nga. Hệ thống khung pháp lý - cơ sở cho sự phát triển nghề công tác xã hội trong ngành y tế. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Công tác xã hội trong bệnh viện - Những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành”. 2016. 4. Báo cáo sơ kết 3 năm triển khai Thông tư số 43/2015/TT-BYT quy định về nhiệm vụ và hình thức tổ chwucs thực hiện nhiệm vụ CTXH của bệnh viện, (2018). 5. Thông tư quy định về nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của bệnh viện, (2015). 6. Quyết định phê duyệt Đề án “Phát triển nghề Công tác xã hội trong ngành Y tế giai 2011- 2020” (2011). 7. Thông tư liên tịch quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành công tác xã hội, (2015). 8. Lê Minh Hiển. Thực trạng của hoạt động giúp đỡ người bệnh có hoàn cảnh khó khăn tại bệnh viện Chợ Rẫy giai đoạn 2009 - 2013. Hà Nội: Đại học Y tế công cộng; 2014. 9. Lê Minh Hiển, Nguyễn Thị Thùy Dương. Kết quả các hoạt động công tác xã hội tại Bệnh viện Chợ Rẫy. 2015. 10. Đoàn Thị Thùy Loan. Thực trạng triển khai các hoạt động công tác xã hội tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa năm 2014-2015 Hà Nội: Đại học Y tế công cộng; 2016. 11. National Association of Social Workers. Read the Code of Ethics 2017 [20/6/2019]. Available from: https://www.socialworkers.org/About/ Ethics/Code-of-Ethics/Code-of-Ethics-English. 12. Nguyễn Thị Hải Liên. Đánh giá hoạt động Công tác xã hội tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh từ tháng 3/2016 đến tháng 6/2017. Hà Nội: Đại học Y tế công cộng; 2017. 13. Trần Thị Vân Ngọc. Thực trạng nhu cầu và hoạt động công tác xã hội tại Bệnh viện Nhi Trung ương, năm 2015. Hà Nội: Đại học Y tế công cộng; 2016. 14. Nguyễn Lương Minh Diễm. Xác định động lực làm việc và một số yếu tố ảnh hưởng của nhân viên phòng Công tác xã hội Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2018. Hà Nội: Trường Đại học Y tế công cộng; 2018. 15. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình đào tạo về Công tác xã hội trong bệnh viện2016. 16. Lê Hảo. Bệnh viện phải có Phòng hoặc Tổ Công tác xã hội để hỗ trợ người bệnh2016 26/12/2018 [cited Hảo. Available from: https://kcb.vn/benh- vien-phai-phong-hoac-to-cong-tac-xa-hoi-de- ho-tro-nguoi-benh.html. Hoàng Long Quân và cộng sự
File đính kèm:
- mot_so_yeu_to_anh_huong_den_cac_hoat_dong_cong_tac_xa_hoi_ta.pdf