Một số tiếp cận trong đánh giá chính sách công nghệ thông tin ngành mỏ nước ta dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 (Nghiên cứu trường hợp: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam)
Từ năm 1997 đến nay, ngành mỏ đã quan tâm phát triển các hợp phần của công nghệ thông
tin (CNTT) cấp ngành và cấp doanh nghiệp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó
có mức độ quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp và cấp ngành, hạn hẹp về nguồn lực nên CNTT của
ngành mỏ nước ta vẫn ở quy mô nhỏ, chưa liên kết được thành một mạng lưới, chưa có cơ sở dữ
liệu dùng chung và do vậy cũng không chia sẻ được. Dưới tác động của Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (CMCN4.0), để phát triển lĩnh vực CNTT với tư cách là công cụ quan trọng để
thúc đẩy các công nghệ thuộc hợp phần của công nghiệp 4.0 cần thiết một tổ hợp chính sách mang tính
hệ thống. Bài viết có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu đó của lĩnh vực CNTT thuộc ngành mỏ nước ta.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số tiếp cận trong đánh giá chính sách công nghệ thông tin ngành mỏ nước ta dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 (Nghiên cứu trường hợp: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam)
về phương tiện, hệ quan điểm về mục tiêu, hệ quan điểm về phương tiện. Cũng cần nói thêm rằng, mục tiêu quá sức thì không có phương tiện nào có thể thực hiện được. Tương tự, phương tiện không phù hợp có thể kìm hãm hoặc không thực hiện được mục tiêu. Ví dụ, mục tiêu đến năm 2020 về cơ bản phải hình thành một hệ thống 3.000 doanh nghiệp KHCN, sau 7 năm thực hiện chúng ta mới chỉ có 400. Không thể hình dung với phương tiện xét duyệt như hiện nay thì bằng cách nào đạt được mục tiêu 1.600 doanh nghiệp trong vòng 1 năm. Hoặc mục tiêu dân giàu nước mạnh bằng phương tiện xây dựng các nông trang ở Liên Xô cũ (gom các phương tiện vào chung - trong đó có đất đai) tức là lấy đi công cụ lao động của người nông dân. Kết quả là ai cũng biết: Liên bang Xô Viết sụp đổ. Ví dụ trên cho thấy các tác động ngoại biên âm tính của chính sách. 4.2. Đánh giá tác động dương tính của chính sách CNTT trong ngành mỏ. i) Xây dựng được lĩnh vực CNTT của ngành góp phần giảm giá thành và nâng cao năng suất lao động của ngành mỏ cho phép giảm giá thành và nâng cao năng suất lao động. Trong mọi thời đại, các quá trình sản xuất luôn được điều khiển theo các quy luật kinh tế. Có thể nói giá thành là một trong những yếu tố quan trọng xác định nhu cầu phát triển CNTT. Không một sản phẩm nào có thể cạnh tranh được nếu giá thành sản phẩm cao hơn các sản phẩm cùng loại, có tính năng tương đương. Trong bối cảnh nền kinh tế đang phải đối phó với các hiện tượng như lạm phát, chi phí cho vật tư, lao động v.v. cần có các phương pháp sản xuất tối ưu để giảm giá thành sản phẩm. Mặt khác nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng mức độ phức tạp của quá trình sản xuất. Khối lượng các công việc đơn giản cho phép trả lương thấp sẽ giảm nhiều. Chi phí cho đào tạo công nhân và đội ngũ phục vụ, giá thành thiết bị cũng tăng theo. Đây là động lực kích thích sự phát triển của CNTT. ii) Xây dựng được lĩnh vực CNTT của ngành mỏ cho phép cải thiện điều kiện sản xuất. Trong ngành mỏ sử dụng quá nhiều lao động thủ công rất dễ mất ổn định về giờ giấc, về chất lượng và năng suất lao động, gây khó khăn cho việc điều hành và quản lý sản xuất. Ngành mỏ được CNTT cho phép loại bỏ các nhược điểm trên. Đồng thời CNTT đã thay đổi tính chất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân, nhất là trong điều kiện khai thác nhiều nguy cơ độc hại, nặng nhọc v.v, iii) CNTT của ngành mỏ cho phép đáp ứng cường độ lao động sản xuất hiện đại. Mặc dù trong ngành mỏ, các phương tiện lao động không đa dạng, khá nhiều thiết bị chuyên dụng, nhưng việc giúp hiện đại hóa lao động, đáp ứng sản lượng yêu cầu với giá thành nhỏ nhất. iv) Xây dựng được lĩnh vực CNTT của ngành, như bất kỳ quá trình sản xuất nào, cho phép thực hiện chuyên môn hóa và hoán đổi sản xuất. Như ta đã biết, chỉ có một số ít sản phẩm phức tạp là được chế tạo hoàn toàn bởi một nhà sản xuất. Việc nghiên cứu, cải tiến chỉ phải thực hiện theo chuyên môn sâu, vì thế có chất lượng cao hơn, tiến độ nhanh hơn. Nên khả năng tiêu chuẩn hóa sản phẩm là rất cao. Điều này cho phép ứng dụng nguyên tắc hoán đổi - một trong các điều kiện cơ bản dẫn tới sự hình thành dạng sản xuất hàng khối khi chế tạo các sản phẩm phức tạp, số lượng ít. Có thể nói CNTT giữ một vai trò quan trọng trong việc thực hiện tiêu chuẩn hóa một cách hiệu quả nhất. T.T.H. Van, D.M. Quan / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 36-45 42 v) Xây dựng được lĩnh vực CNTT của ngành cho phép thực hiện cạnh tranh và đáp ứng điều kiện sản xuất. Nhu cầu cạnh tranh sẽ loại bỏ các công ty khai thác với chất lượng thấp, giá thành cao. Cạnh tranh bắt buộc các công tác khai thác phải cải tiến công nghệ, áp dụng CNTT để tạo ra sản phẩm tốt hơn với giá rẻ hơn. vi) Xây dựng được lĩnh vực CNTT của ngành cho phép cải thiện điều kiện làm việc, an toàn lao động và phát triển bền vững. Cùng với cơ giới hóa, tự động hóa, tin học góp phần giảm nhẹ lao động, kiểm soát và ngăn chặn kịp thời những nguy cơ hiểm họa cháy nổ trong điều kiện khai thác. Mạng điều khiển giám sát tốc độ cao giúp tăng cường quản lý tập trung hoạt động khai thác. Với tất cả những mặt tích cực trên đây, CNTT đảm bảo tính bền vững cao hơn cho sự phát triển các doanh nghiệp (Công ty) của ngành mỏ. 4.3. Đánh giá tác động âm tính của chính sách CNTT của ngành mỏ i) CNTT của ngành mỏ đòi hỏi đầu tư lớn, đôi khi quá sức đối với quy mô công ty. Như ta đã biết các thiết bị tự động hóa của ngành mỏ khá chuyên biệt và khá đắt, vì vậy không thể đầu tư hàng loạt, đồng bộ theo kiểu chiến dịch. Các dự án đầu tư, cải tạo, nâng cấp thường rất lớn đòi hỏi tập trung nguồn tài chính cao. Điều đó đòi hỏi cần có quy trình quản lý sản xuất nghiêm ngặt và sự lựa chọn ưu tiên với năng lực tài chính. Trong khi năng lực tài chính của các công ty trong ngành mỏ nước ta không phải lúc nào cũng sẵn sàng. ii) CNTT đòi hỏi đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực có trình độ. Hiện nay, ngành mỏ nước ta lực lượng lao động thủ công khá lớn, trong khi CNTT lại cần có số lượng lớn nhân lực KH&CN có tri thức vận hành hệ thống tự động điều khiển. Yêu cầu này đòi hỏi khoản đầu tư bổ sung khá lớn, là thách thức đối với ngành mỏ. iii) CNTT cùng với làn sóng của cách mạng công nghiệp 4.0 đang gây ra tâm lý “sẽ bị thất nghiệp” đối với đội ngũ lao động nói chung và trong ngành mỏ nói riêng, mặc dù lao động thủ công (đặc biệt lao động có tay nghề cao) nguy cơ này xảy ra sau so với đội ngũ hành chính, văn phòng. Tâm lý này cùng với ý thức ngại đổi mới tạo nên tác dụng ngoại biên âm tính đối với quá trình CNTT nói chung và trong ngành mỏ nói riêng. 5. Đề xuất khung chính sách phát triển CNTT của ngành mỏ Căn cứ các định hướng và mục tiêu cũng như các danh mục các công nghệ ưu tiên được xác định trong quá trình nghiên cứu, các tác động dương tính và âm tính của chính sách công nghệ hiện hành, theo tiếp cận chính sách đổi mới, tác giả đề xuất khung chính sách phát triển lĩnh vực CNTT của ngành mỏ đến năm 2025 (Hình 1). 5.1. Nhóm các chính sách về hoàn thiện quản lý, quản trị Theo tiếp cận chính sách đổi mới, chính sách phải được xây dựng trên cơ sở liên kết các chính sách KH&CN; Giáo dục; Thương mại; Tài chính; Tiền tệ, v.v, Vì vậy, cần xem xét giải pháp về liên kết các cơ quan quản lý nhà nước (với tư cách là các chủ thể chính sách) và hoàn thiện quản trị trong bản thân các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể thụ hưởng chính sách (đối tượng tác động của chính sách). Trong nhóm này, cần phân công chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước để có được sự điều hòa phối hợp chính sách của Chính phủ. Đồng làm rõ chức năng, nhiệm vụ quản trị của lãnh đạo doanh nghiệp dưới tác động của chính sách. 5.2. Nhóm chính sách liên kết của tác nhân hoạt động trong lĩnh vực CNTT của ngành mỏ Cùng với chính sách hợp tác công tư, các tác nhân tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực Tin học hóa ngành khai thác than có thể là Chính Phủ (theo PPP), các tổ chức KH&CN trong lĩnh vực Tin học hóa, các tổ chức cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp sản xuất của ngành mỏ. Sự liên kết này có vai trò rất quan trọng, hoạt động này góp T.T.H. Van, D.M. Quan / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 36-45 43 phần tăng cường được các nguồn lực trong nước và quốc tế (vốn xã hội) thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành mỏ và các tác nhân. Nhóm giải pháp này được xây dựng theo tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia. Hình 1. Khung chính sách phát triển CNTT của ngành mỏ. 5.3. Nhóm các chính sách về đào tạo nguồn nhân lực - Nghiên cứu, thực hiện cơ chế, chính sách phát triển nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. - Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực CNTT của ngành mỏ có khả năng làm chủ và tiếp nhận các công nghệ mới. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực công nghệ công nghiệp 4.0. Tập trung một số cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề về CNTT đạt trình độ quốc tế. Đào tạo và tái đào tạo nhân lực trong lĩnh vực CNTT theo phương thức đa lớp (multi levels) trong nước cũng như ngoài nước. 5.4. Nhóm các chính sách về đa dạng hóa nguồn vốn và ưu đãi về phí, thuế trong lĩnh vực CNTT của ngành mỏ trong bối cảnh CMCN 4.0 Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vốn ODA, các nguồn vốn xã hội khác để thực hiện các hoạt động đổi mới trong lĩnh vực CNTT của ngành mỏ. Trước mắt, thành lập Quỹ phát triển KH&CN tại Tập đoàn than và khoáng sản (TKV), xúc tiến giải quyết các vướng mắt trong giải ngân quỹ này để tài trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công nghiệp 4.0. Ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với những CNTT trong nước không sản xuất được ứng dụng trong khai thác. Miễn thuế nhập khẩu linh kiện, cấu kiện mà trong nước chưa sản xuất được phục vụ sản xuất và dịch vụ thuộc lĩnh vực CNTT; Các dự án đầu tư liên doanh với nước ngoài để sản xuất các sản phẩm CNTT được hưởng mọi ưu đãi về thuế theo quy định; Nâng thời gian miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các đơn vị hoạt động trong nghiên cứu, chế tạo thuộc các công nghiệp mũi nhọn mua sản phẩm CNTT để đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm tạo nguồn kinh phí trả vốn vay cho đơn vị. Ưu đãi về vốn khi khai thác đầu tư nghiên cứu và sử dụng CNTT vào sản xuất ở trong nước áp dụng trong khai thác. T.T.H. Van, D.M. Quan / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 36-45 44 Hỗ trợ kinh phí cho tổ chức KH&CN nghiên cứu ứng dụng CNTT vào trong khai thác khi trong nước chưa chế tạo được. Tài trợ toàn bộ hoặc hỗ trợ chi phí cho các dự án nghiên cứu tạo ra các thiết bị công nghệ công nghiệp 4.0 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra các sản phẩm chủ lực của ngành mỏ. Hỗ trợ kinh phí nghiên cứu ban đầu cho các đề tài nghiên cứu và tiếp nhận công nghệ đã có của nước ngoài hoặc nghiên cứu CNTT mới có khả năng ứng dụng vào sản xuất, phục vụ công tác khai thác: giám sát môi trường khí, hệ thống giám sát người, hệ thống xúc bốc-vận tải, hệ thống tự bơm nước, hệ thống thông gió,, Hỗ trợ một phần kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong nước tham gia hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm CNTT ứng dụng cho ngành mỏ ở trong nước và ngoài nước. 5.5. Nhóm chính sách về hợp tác quốc tế Liên kết với các đối tác có tiềm lực mạnh về CNTT và công nghiệp Mỏ (Nhật Bản, Nga, Ba Lan, Úc, Trung Quốc,) để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thu hút các chuyên gia giỏi làm tư vấn và tham gia thực hiện chương trình KH&CN có liên quan đến CNTT. Đảm bảo các điều kiện về tiền lương, nhà ở và môi trường làm việc cho chuyên gia nước ngoài và Việt kiều về nước tham gia vào các hoạt động đào tạo; nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực CNTT tương đương với các điều kiện mà họ được hưởng ở nước sở tại đang làm việc; Đảm bảo không phân biệt đối xử ở mọi địa bàn hoạt động, mọi loại hình dịch vụ; Có cơ chế nhập cảnh mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, cho phép các chuyên gia nước ngoài Việt kiều, những người lao động lành nghề nhập cảnh với thị thực dài hạn, đủ điều kiện về thời gian để hỗ trợ phát triển CNTT trong nước. 5.6. Chính sách khoa học và công nghệ cho phát triển CMCN 4.0 Xây dựng chương trình quốc gia về phát triển các công nghệ công nghiệp 4.0 trên cơ sở đó khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức KH&CN ngành mỏ tham gia nghiên cứu theo phương thức tuyển chọn. Phát triển hạ tầng, ứng dụng CNTT, nhất là hạ tầng kết nối số (4G, 5G) bảo đảm an toàn, đồng bộ đáp ứng yêu cầu kết nối internet kết nối con người và kết nối vạn vật (IoT). Xây dựng chiến lược chuyển đổi số ngành mỏ. Đầu tư, phát triển các trung tâm dữ liệu lớn, phân tích, quản lý và xử lý dữ liệu lớn nhằm tạo ra các sản phẩm, tri thức mới trong ngành mỏ. Tạo mọi điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, thuận lợi, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số ngành mỏ. Hỗ trợ xây dựng và phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong bối cảnh công nghiệp 4.0. Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp trong các lĩnh vực công nghệ ưu tiên thuộc hợp phần của công nghệ công nghiệp 4.0. 6. Kết luận CMCN 4.0 như bất kỳ cuộc cách mạng xảy ra trước đó, là tiến trình không thể đảo ngược. Đây là hệ thống lớn (mega system) liên kết các tiến bộ nhảy vọt trong các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và công nghệ sinh học. Nhiệm vụ của Việt Nam nói chung và ngành mỏ nói riêng là tìm ra giải pháp để tận dụng các thành tựu mà nó mang lại cũng như tránh các tác động âm tính mà nó đưa tới. Phát triển CNTT là chìa khóa để tiếp cận các thành tựu đó và cũng để phát triển ra thành tựu mới trên bình diện quốc gia cũng tầm ngành. Xét tầm quan trọng của CNTT trong thúc đẩy CMCN 4.0 như vậy, cần một tập hợp có hệ thống các giải pháp chính sách để thúc đẩy lĩnh vực đó phát triển. CNTT trong ngành mỏ cũng có nhu cầu đó. Trên cơ sở đánh giá tác động của chính sách phát triển CNTT hiện hành của ngành mỏ, phân tích các tác động dương tính, âm tính, nguyên nhân của các tác động âm tính; bằng tiếp cận hệ thống đổi mới và chính sách đổi mới, tác T.T.H. Van, D.M. Quan / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 36-45 45 giả đã đề xuất một tổ hợp có tính hệ thống các nhóm giải pháp phát triển CNTT trong ngành mỏ nước ta khả dĩ khắc phục được các tác động âm tính của chính sách hiện tại, thúc đẩy CNTT của ngành mỏ nước ta phát triển./. Tài liệu tham khảo [1] K. Schwab, The Fourth Industrial Revolution: What It Means and How to Respond, https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the- fourth-industrial-revolution-what-it-means-and- how-to-respond/, 2015. [2] Forschungsunion, Acatech, Recommendations for implementing the strategic initiative INDUSTRIE 4.0, Final report of the Industrie 4.0 Working Group, April 2013. [3] J.H. Leavitt, L.T. Whisler, Management in the 1980’s, Harvard Business Review, 1958-11. [4] National Assembly of Vietnam, Law on information technology (No. 67/2006/QH11), June 29, 2006 (in Vietnamese). [5] National Association directing the compilation of encyclopedias (Vietnam), Vietnamese encyclopedia, Hanoi, Vietnam, 1995 (in Vietnamese), [6] Wikipedia, Thomas Kuhn, https://vi.wikipedia.org/wiki/Thomas_Kuhn, 2019. [7] V.C. Dam, Scientific research methodology Science and Technics Publishing House, Hanoi, Vietnam, 1999 (in Vietnamese).
File đính kèm:
- mot_so_tiep_can_trong_danh_gia_chinh_sach_cong_nghe_thong_ti.pdf