Một số quan điểm về thế giới quan của chủ nghĩa hậu hiện đại
Tuy không phải là một trường phái triết học hoàn toàn độc lập, nhưng do thế giới
quan triết học riêng biệt của mình nên chủ nghĩa hậu hiện đại có những cách nhìn nhận
khác biệt trên một số lãnh vực. Những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại tỏ ra nghi ngờ về
sự tồn tại của thế giới khách quan tuyệt đối trong nhận thức của con người. Họ cho rằng
ngôn ngữ và sự nhận thức của cộng đồng văn hóa đã sáng tạo ra thế giới và tạo nên cảm
giác về thế giới này. Đây cũng là sự biểu đạt của một thế giới quan duy tâm tồn tại trong
triết học phương Tây hiện đại.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Một số quan điểm về thế giới quan của chủ nghĩa hậu hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số quan điểm về thế giới quan của chủ nghĩa hậu hiện đại
hơn trong vấn đề này khi cho rằng: “Lý thuyết không diễn đạt, phiên dịch hay để áp dụng vào thực tiễn: nó chính là thực tiễn. Nhưng lý thuyết có tính cục bộ và khu vực Nó không toàn thể hóa Lý thuyết không phải để “thức tỉnh ý thức” rằng chúng ta đang đấu tranh, mà là để kích thích năng lực Nó là một hoạt động được tiến hành bên cạnh những kẻ đấu tranh giành quyền lực, chứ không phải là kẻ soi sáng (cho) họ từ một khoảng cách an toàn”8. Có thể thấy, dưới cái nhìn hậu hiện đại, ngôn ngữ không còn giữ vai trò trung gian trung tính truyền tải sự phản ánh chính xác thực tại để qua đó, con người biết được về một hiện thực khách quan ẩn giấu phía sau lời và chữ, mà hơn thế, nó góp phần vẽ nên một thực tại mới theo nhận thức và ý đồ của chủ thể. Về vấn đề này, Richard Rorty cũng có quan điểm: “Chúng ta cần phải có một sự phân biệt giữa tuyên bố rằng thế giới này hiện hữu với tuyên bố chân lý hiện hữu Cho rằng chân lý không hiện hữu đơn giản là để nói rằng ở đâu không có những câu chữ thì MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ THẾ GIỚI QUAN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI 60 ở đó không có chân lý, rằng những câu chữ đó là những thành tố của ngôn ngữ con người, và ngôn ngữ chính là những sáng tạo của con ngườiThế giới thì không nói. Chỉ có chúng ta làm điều đó”9. Chỉ có con người đang sử dụng ngôn ngữ để mô tả về hiện thực chứ bản thân hiện thực không tự biểu hiện mình qua ngôn ngữ. Và cũng chính bằng ngôn ngữ, con người xây dựng những sự thật về hiện thực và luôn tin rằng những cái mình đang xây dựng thực sự là sự thật thuần túy về hiện thực đó. Vì lẽ đó, đối với các nhà hậu hiện đại, khát vọng nắm bắt thế giới thuần khiết như nó vốn có chỉ là ảo tưởng10. Họ cho rằng, giữa ngôn ngữ và thực tại không có sự tương thích hoàn toàn mà luôn có một độ “vênh” nhất định về mặt ý nghĩa. Ngôn ngữ và hiện thực mà ngôn ngữ nhắm vào đó để miêu tả là hai tồn tại khác nhau, một bên là cái phản ánh, một bên là cái được phản ánh và do đó chúng là bất khả so sánh. Không chỉ chịu sự tác động của ý thức người sử dụng ngôn ngữ, độ vênh ý nghĩa giữa ngôn ngữ và thực tại (gốc) còn xuất phát từ chính bản thân cấu trúc ngôn ngữ. Ngôn ngữ không tồn tại một cách cô lập, khép kín trong chính nó và trong mối quan hệ với thực tại mà trái lại, bản thân các ký hiệu ngôn ngữ luôn “va chạm” với nhau để tạo ra những cấu trúc ngôn ngữ mang những tầng nấc ý nghĩa mới11. Chúng ta thường quan niệm ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu, tín hiệu vật chất giữ vai trò là phương tiện biểu đạt những thông tin của ý thức, còn nội dung của ý thức do hiện thực khách quan quy định. Thế nhưng đối với các nhà hậu hiện đại, nội dung của ý thức được tạo lập bởi chính bản thân những yếu tố trong cấu trúc ngôn ngữ. Do đó, không phải thực tại làm nên ý nghĩa của ngôn ngữ mà trái lại, ngôn ngữ đã khiến cho thực tại mang nhiều ý nghĩa tùy vào sự tương tác của các hệ thống ký hiệu, biểu tượng nơi các diễn ngôn hay văn bản. Và vì thế, trong sự tương tác, triển hạn không ngừng của văn bản, các thực tại khác nhau sẽ được hình thành và tác động đến nhận thức con người. 3.2. Hình ảnh thực tại phụ thuộc ý chí cộng đồng văn hóa Thực tại không chỉ là tác phẩm được dựng nên bởi bản thân các thành phần trong cấu trúc ngôn ngữ mà còn phụ thuộc vào trường ý nghĩa của ngôn ngữ, cái góp phần xác lập những hệ quy chiếu tạo cơ sở tồn tại và biểu đạt cho mỗi phát ngôn. Chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng chúng ta sẽ không bao giờ dỡ bỏ được những quan điểm, đôi khi là những định kiến đã được xác lập từ trước đó khi tiếp cận thực tại để có được sự thực khách quan, thuần khiết về nó. Những yếu tố hoàn cảnh lịch sử, cấu trúc tri thức và tâm lý xã hội đóng vai trò như những yếu tố trong ngữ cảnh (tạm dịch từ “situatedness12”) ngăn cản con người tiếp nhận thế giới một cách khách quan để nhận thức thực tại đúng như những gì nó vốn có. Trong các nghiên cứu của mình về mối quan hệ giữa quyền lực và tri thức/diễn ngôn, Foucault thể hiện sự nghi ngờ về cái gọi là khách quan, trung tính của tri thức. Ông thấy rằng tri thức của con người biến đổi theo thời gian, phụ thuộc vào hệ thống diễn ngôn giữ vai trò thống trị ở thời đại đó. Chính con người, qua các diễn ngôn tạo ra ý nghĩa của thế giới, và lọc thế giới qua ngôn ngữ13. Bởi thế, hình ảnh về thực tại chẳng qua chỉ là sản phẩm của sự hợp thức hóa cho những kỳ vọng và mong muốn của con người trong những điều kiện xã hội nhất định. Không bao giờ có những sự thật về thực tế, chỉ có sự giải thích về thực tế đó mà thôi14114. Vậy nên thế giới, trong đó có văn hóa, không gì khác là sự phức hợp, đan PHẠM ĐÌNH NGHIỆM - LÝ NGỌC YẾN NHI 61 cài giữa các văn bản, những câu chuyện/ tự sự được kể lại bởi ý chí cộng đồng xã hội ở mỗi thời đại khác nhau. Đó cũng chính là kết quả của sự đồng thuận giữa tri thức và nguyện vọng nơi số đông người trong xã hội đó. 3.3. Đa thực tại và các tiểu tự sự Có thể nói, trong quan niệm chung nhất về thế giới, cái mà chúng ta cho là hiện thực khách quan, là thực tế thì đối với những nhà hậu hiện đại đó chỉ là một văn bản, một diễn ngôn hay một câu chuyện/ tự sự được tường thuật lại. Nói như Heidegger (một trong những triết gia mà học thuyết của ông giữ vai trò là tiền đề lý luận của chủ nghĩa hậu hiện đại) thì: “Hình ảnh thế giới không hề thay đổi từ thời tiền trung cổ tới thời hiện đại, song chính sự kiện thế giới trở thành hình ảnh mới là điều làm bật lên tính thể của thời hiện đại”15. Con người trước đây luôn đinh ninh rằng hình ảnh ta có về thế giới là hiện thực trong khi con người hiện đại lại xem thế giới hiện thực chỉ là hình ảnh. Đó hai cảm nhận khác biệt về thế giới ở từng thời đại bắt nguồn từ quan niệm khác nhau về nhận thức. Một đằng khẳng định khả năng phản ánh một cách khách quan, đầy đủ, trung thực của nhận thức và khả năng biểu đạt chính xác những điều đó nơi ngôn ngữ. Một đằng nhấn mạnh tính không tương thích và bất khả so sánh giữa vật và lời. Các nhà hậu hiện đại đồng tình và ra sức chứng minh cho tính khả dĩ của khuynh hướng thứ hai. “Rốt cuộc, hiện thực trực tiếp duy nhất của chúng ta là biểu tượng của chúng ta về hiện thực, và hiện thực duy nhất có thể quan niệm được của chúng ta là quan niệm về hiện thực của chúng ta. Nhưng để quan niệm được biểu tượng, quan niệm và tinh thần của mình, chúng ta lại cần có ngôn ngữ để có thể tạo ra khái niệm biểu tượng, quan niệm và tinh thần, cũng như cần có một thực thể người sống động và có tính xã hội, có một bộ não để hiểu được ngôn ngữ”16. Chính vì chịu sự tác động của ngữ cảnh và ý chí chủ thể nên theo chủ nghĩa hậu hiện đại, không có một thực tại bất biến, tuyệt đối được biểu hiện qua ngôn ngữ để từ đó làm nền tảng cho mọi nhận thức con người mà trái lại, có nhiều hiện thực đang cùng tồn tại đan xen. Và điều đáng nói ở đây, sẽ không có một cơ sở nào chắc chắn và xác tín cho phép ta khẳng định rằng đâu mới là hình ảnh trung thực nhất có khả năng đại diện cho hiện thực nguyên bản hoặc trong những câu chuyện được kể lại, câu chuyện nào mới là nguyên thủy mà không phải là những dị bản. Cho nên, theo chủ nghĩa hậu hiện đại, bất kỳ một tuyên bố nào về thực tế cũng không thể đại diện cho thực tế thực sự để trở thành sự thật hoàn hảo nhất về thực tế. Một kết luận tất yếu được rút ra: không có chân lý tuyệt đối, chỉ có những sự thật. Những sự thật này đều được thừa nhận giá trị vì chúng hữu ích đối với cộng đồng đã xây dựng nên nó và có sự khác biệt nơi chính nội dung và hình thức của diễn ngôn đã lý giải, miêu tả về nó bởi những phát ngôn đó khởi sinh và hiện diện trong những trường ngữ nghĩa khác nhau. Hay nói như Foucault: “Mỗi xã hội đều có cơ chế chân lý của nó, “chính trị học chung” về chân lý của nó”17. Vì lẽ đó, trong cách nhìn nhận của mình, chủ nghĩa hậu hiện đại đề cao tính đa thể, phi trung tâm nơi các tự sự. Nó thể hiện sự hoài nghi về những đại tự sự hay siêu tự sự với tham vọng giải thích được mọi tồn tại trong thế giới, ngay cả giả định về sự tồn tại của một thế giới khách quan nằm ngoài ý thức con người, là đối tượng, mục đích của nhận thức. Trong Hoàn cảnh hậu hiện đại (1979), Lyotard cho rằng: “Đại tự sự mất đi tính đáng tin của nó”18 Thế nên, Lyotard – và hầu hết các nhà tư tưởng theo chủ nghĩa hậu hiện MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ THẾ GIỚI QUAN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI 62 đại đều khuyến khích những tiểu tự sự - những câu chuyện gắn với những đối tượng cụ thể trong một phạm vi xác định, phù hợp với chuẩn tắc của một cộng đồng văn hóa nhất định, nói khác hơn là chú trọng vào tính hiệu quả và hữu ích thay vì chỉ quan tâm tìm kiếm và chứng minh tính đúng đắn của những giả định siêu hình học. Chủ trương “tư duy toàn cầu, hành động địa phương” (think globally, act locally) xuất phát từ tư tưởng hậu hiện đại cũng thể hiện rõ tinh thần này. 4. KẾT LUẬN Có thể nói rằng, dù được biến tướng dưới những diễn đạt khác nhau về vai trò của ngôn ngữ, cộng đồng văn hóa nhưng xét đến cùng, chủ nghĩa hậu hiện đại đã xuất phát từ thế giới quan duy tâm để đưa ra các luận điểm của mình về các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. đỉnh cao suy lý - bước kiện toàn của “tâm thức hậu hiện đại”. Ở đó, ngôn ngữ, ý chí, nguyện vọng của cộng đồng là những yếu tố chi phối mạnh mẽ đến nhận thức của con người về thế giới mà họ đang tồn tại trong nó. Tìm hiểu thế giới quan của chủ nghĩa hậu hiện đại do đó, góp phần lý giải căn nguyên của những quan điểm về nghệ thuật, tôn giáo, chính trị, xã hội đi ngược với tư duy truyền thống từng một thời làm “khuynh đảo” giới học giả phương Tây cũng như một bộ phận giới văn nghệ sĩ Việt Nam những thập niên gần đây. Với sự phát triển không ngừng của xã hội ngày nay, những vấn đề mới liên quan đến con người và thế giới không ngừng được nảy sinh và có những tác động mạnh mẽ đến thế giới quan của những nhà hậu hiện đại. Trong chính tư duy của họ bắt đầu hiện diện một hướng đi mới đối với phương pháp tiếp cận: Làm thế nào để vượt qua chủ nghĩa hậu hiện đại? “Chúng ta không còn cần thiết chỉ nói theo lối phủ định” là một trong những ý kiến mà các nhà triết học hậu hiện đại đưa ra trong Hội thảo khoa học lần thứ nhất về chủ nghĩa sau hậu hiện đại (After Post Modernism) tại trường Đại học Chicago vào tháng 11 năm 199719. Họ cũng đồng thời thể hiện sự nghi ngờ và thách thức quan điểm chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa hư vô, khắc phục tính cực đoan và phiến diện của các nhà theo chủ nghĩa hậu hiện đại đương đại để tìm kiếm một con đường phát triển tương đối hợp lý và kiện toàn cho triết học phương Tây. Nhận định sau đây của Derrida trong Những bóng ma của Mác được đúc kết ở giai đoạn mà tư tưởng hậu hiện đại không còn đình đám trong giới trí thức và cả ở các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có vẻ nó như một sự cáo chung cho lối phê phán một chiều của trào lưu tư tưởng này đối với các đại tự sự mà chủ nghĩa Marx là một đối tượng ưu tiên. “Tất cả mọi người trên toàn trái đất này, dù họ muốn, họ biết hay là không, đều là những người kế thừa của Mác và chủ nghĩa Mác với một mức độ nhất định”20. Chú thích 1Jean Francois Lyotard, Ngân Xuyên (dịch), Bùi Văn Nam Sơn (hiệu đính) (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr.54. 2 Jean Francois Lyotard (2008), Sách đã dẫn, tr.15. 3 Chữ dùng của Lyotard. 4 Jean Francois Lyotard (2008), Sách đã dẫn, tr. 53-54. 5Jean Francois Lyotard (2008), Sách đã dẫn, tr.54. 6 Xem thêm generation-y-in-dallas/7-characteristics-of- postmodernism-generation-y 7 Derrida Jacques (1976), Of Grammatology, Johns Hopkins University Press, Baltimore, PHẠM ĐÌNH NGHIỆM - LÝ NGỌC YẾN NHI 63 p.158 8 Trích lại từ Richard Appignanesi, Chris Gattat, Trần Tiễn Cao Đăng (dịch), Bùi Văn Nam Sơn (hiệu đính) (2006), Nhập môn: Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, tr.86. 9 Rorty Richard (1989), Contingency, Irony, and Solidarity, Cambridge University Press, New York, p. 4–5. 10 Xem thêm quan điểm của Thomas Kuhn (2008), tr.395. 11 Xem Trần Quang Thái (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb. Tp.HCM, tr.141- 143. 12Sự tương tác giữa bối cảnh (context) và tình hình (situation) mà ở đó văn bản được nảy sinh (thiên về các yếu tố mang tính văn hóa – xã hội). 13Xem Richard Appignanesi, Chris Gattat, Trần Tiễn Cao Đăng (dịch), Bùi Văn Nam Sơn (hiệu đính) (2006), Nhập môn: Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, tr.82-87 14Xem postmodern-worldview.htm 15 Trích lại từ Trần Quang Thái (2006), sđd, tr. 147. 16Edgar Morin (2006), Lê Diên (dịch), Phương pháp 3, Tri thức về tri thức, Nhân học về tri thức, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 393. 17 Foucault Michel (1980), Power/ Knowledge, Havester Press, Brighton, Susscex; p. 130. 18Jean Francois Lyotard, Ngân Xuyên (dịch), Bùi Văn Nam Sơn (hiệu đính) (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr.152. 19Xem Lưu Phóng Đồng, Lê Khánh Trường (dịch) (2004), Giáo trình hướng tới thế kỉ XXI - Triết học phương Tây hiện đại, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.916-918. 20Giắccơ Đêriđa (1994), Những bóng ma của Mác, Nxb. Chính trị quốc gia - Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, tr.191. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Derrida Jacques (1976), Of Grammatology, Johns Hopkins University Press, Baltimore. 2. Edgar Morin (2006), Lê Diên (dịch), Phương pháp 3, Tri thức về tri thức, Nhân học về tri thức, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 3. Foucault Michel (1980), Power/Knowledge, Havester Press, Brighton, Susscex. 4. Giắccơ Đêriđa (1994), Những bóng ma của Mác, Nxb Chính trị quốc gia - Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội. 5. (14/5/2013). 6. Jean Francois Lyotard, Ngân Xuyên (dịch), Bùi Văn Nam Sơn (hiệu đính) (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb Tri thức, Hà Nội. 7. Lã Nguyên (2009), Chủ nghĩa hậu hiện đại như một hệ hình thế giới quan (trả lời phỏng vấn), Tạp chí Văn hóa Nghệ An, va-doi-song27/khach-moi-cua-tap-chi45/chu-nghia-hau-hien-dai-nhu-mot-he-hinh- the-gioi-quan (14/5/2013). MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ THẾ GIỚI QUAN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI 64 8. Lưu Phóng Đồng, Lê Khánh Trường (dịch) (2004), Giáo trình hướng tới thế kỉ XXI - Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 9. Richard Appignanesi, Chris Gattat, Trần Tiễn Cao Đăng (dịch), Bùi Văn Nam Sơn (hiệu đính) (2006), Nhập môn: Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Trẻ, Tp. HCM. 10. Rorty Richard (1989), Contingency, Irony, and Solidarity, Cambridge University Press, New York. 11. Thomas Kuhn (2008), Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học, Nxb Tri thức, Hà Nội. 12. Trần Quang Thái (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb Tp.HCM, Tp.HCM. * Nhận bài ngày: 4/5/2014. Biên tập xong: 5/6/2014. Duyệt bài: 12/6/2014
File đính kèm:
- mot_so_quan_diem_ve_the_gioi_quan_cua_chu_nghia_hau_hien_dai.pdf