Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781)

Là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng của thời kỳ Khai sáng Đức, Gotthold

Ephraim Lessing (1729 - 1781) đã để lại cho nhân loại nhiều tư tưởng có giá trị.

Ông không chỉ là một nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình nghệ thuật mà còn là nhà

triết học tôn giáo với một số quan điểm nổi bật. Niềm tin vào lý tính con người,

đề cao tinh thần khoan dung và chống lại định kiến giáo điều là những đặc trưng

cơ bản của triết học tôn giáo Lessing. Bài viết phân tích một số nội dung tư

tưởng trong triết học tôn giáo của ông như lý tính của con người và vấn đề tôn

giáo; vấn đề tôn giáo và đạo đức.

Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781) trang 1

Trang 1

Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781) trang 2

Trang 2

Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781) trang 3

Trang 3

Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781) trang 4

Trang 4

Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781) trang 5

Trang 5

Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781) trang 6

Trang 6

Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781) trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 3140
Bạn đang xem tài liệu "Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781)

Một số nội dung cơ bản trong triết học tôn giáo của Gotthold Ephraim Lessing (1729-1781)
o điều Thiên Chúa về mặc khải. 
Christian Wolff (1679 - 1754) – một 
trong những triết gia của phong trào 
Khai sáng Đức - đã lập luận: lý tính 
thống trị trên thế giới và trong mọi lĩnh 
vực của cuộc sống con người. Tất cả 
hiện tượng của thế giới đều có thể 
giải thích và nhận thức được bằng lý 
tính, giữa lý tính và lòng tin không có 
sự mâu thuẫn, vì vậy, con người vừa 
có thể nhận thức chân lý vừa có thể 
thực hiện niềm tin tôn giáo của mình 
để vươn tới sự hoàn thiện - mục đích 
cao cả của mỗi con người và cả loài 
người (C. Wolff, 1980: 47). 
Kế thừa tư tưởng của Wolff và các 
bậc tiền bối, Lessing (2003) cũng đề 
cao vai trò của lý tính con người. Ông 
cho rằng sự độc lập, tự quyết của ý 
chí do lý tính dẫn dắt, quyết định hoạt 
động đời sống tinh thần của con 
người. Niềm tin vào lý tính, vào sức 
mạnh tinh thần của con người, để từ 
đấy phục vụ cho mục đích cao cả vì 
con người và hạnh phúc loài người, là 
nội dung quan trọng của triết học 
Lessing. 
Theo Lessing, nhận thức của con 
người luôn thay đổi, vì vậy, không tồn 
tại chân lý vĩnh cửu. Nhận thức con 
người luôn là sự vươn tới chân lý và 
chính quá trình cố gắng vươn tới chân 
lý làm nên giá trị của con người. Sự 
bất tử của nhân loại và của mỗi con 
người nằm trong sự vươn tới vĩnh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (263) 2020 
3 
cửu của chân lý (dẫn theo J. 
Hirschberger, 1991: 264). Chính trong 
sự vươn lên không ngừng này con 
người cảm nhận được tính bất tử của 
nhân loại và của cả chính mình 
(Unsterblichkeit der Menschheit und 
auch des einzelnen Meschen). Trong 
sự tái sinh luôn luôn mới mẻ, con 
người đang tham dự vào tiến trình 
hoàn thiện vô hạn, tất cả đều tương 
đối, giới hạn, chỉ có lý tính là vô cùng. 
Hình ảnh con người lý tính của 
Lessing là hình ảnh con người sống 
dậy thời phục hưng và trở nên tiêu 
biểu cho thời Khai sáng nói chung và 
Khai sáng Đức nói riêng. Gottfried 
Wilhelm von Leibniz (1646 - 1716) đã 
sử dụng “ý niệm vô hạn” khi nói về tri 
thức con người, theo đó tri thức chúng 
ta chỉ có thể tiếp cận những giá trị gần 
đúng về đối tượng mà không nắm bắt 
trọn vẹn được bản thể của đối tượng, 
bởi vì tinh thần con người vốn luôn là 
“sự hữu hạn trong hiện sinh của nó”, 
chỉ tham dự một phần nào vào những 
ý niệm bản thể vĩnh cửu mà thôi (L. 
Bernd, 1995: 498). 
Chịu sự ảnh hưởng của Baruch Spinoza 
(1632 - 1677) về sự thống nhất của 
Thượng đế và tự nhiên, Lessing (2003: 
234) cho rằng: Thượng đế là một thực 
thể hoàn hảo (das vollkommenste 
Wesen), những gì Thượng đế tưởng 
tượng, Ngài cũng tạo ra, và trong tất 
cả sự hoàn hảo của sự tưởng tượng 
của mình, Ngài đã tạo một con người 
hoàn hảo, đó chính là con trai Ngài, 
chính là Ngài hay một “hình ảnh giống 
Ngài”. Không những thế ông còn 
khẳng định rằng, không thể có hai 
hiện thực, một ở trong và một ở ngoài 
Thượng đế. Hai chính là một, và tất cả, 
những gì tồn tại ngoài Thượng đế, 
cũng tồn tại trong Thượng đế (Beide 
Wirklichkeiten seien eins, und alles, 
was außer Gott existieren soll, 
existiere in Gott). 
Theo Lessing (2003: 234), trong các 
hình thức của tôn giáo, tôn giáo tích 
cực nhất là tôn giáo tự nhiên, mặc dù 
nó là hình thức thấp nhất. Sự nghi 
ngờ của ông dành cho Kitô giáo, bởi 
“nếu Chúa là người thật, nếu Ngài đã 
thực sự là người, Ngài sẽ không bao 
giờ bỏ cuộc, để luôn là một con 
người”. 
Trong Kitô giáo của lý tính (1753), 
Lessing (2003: 198) lập luận rằng 
Thượng đế được hiểu như là nguyên 
tắc sáng tạo, chứ không hiểu theo 
nghĩa bên ngoài thế giới: “Thượng đế 
phân chia sự hoàn thiện của Ngài 
trong những thực thể”, và “tất cả thực 
thể liên kết với nhau gọi là thế giới”, 
trong đó “sự vô cùng (vĩnh cửu) là 
không thể tranh cãi”. Những thực thể 
được Thượng đế tạo ra là những 
“thực thể đơn giản”, là “vị thần hạn 
chế” (G.E. Lessing, 2003: 200). Sự 
hoàn hảo của chúng cũng phải tương 
tự như sự hoàn hảo của Thượng đế. 
Dấu hiệu của sự hoàn hảo của 
Thượng đế thể hiện trong nhận thức 
và khả năng hành động và điều đó chỉ 
có ở “thực thể đạo đức” (moralisches 
Wesen), nghĩa là ở con người. 
Với Lessing, nhận thức của con người 
và niềm tin tôn giáo không mâu thuẫn 
 NGÔ THỊ MỸ DUNG – MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG 
4 
với nhau. Ngay từ ban đầu sự mặc 
khải dẫn dắt lý trí của con người 
nhưng đến một giai đoạn nhất định, lý 
trí của con người sẽ soi sáng mặc 
khải. Ông cho rằng, sự tiến triển của 
các hình thức tôn giáo khác nhau 
tương ứng với trình độ phát triển của 
lý tính loài người. Đó là một quá trình 
phát triển từ thấp lên cao của tư duy 
nhân loại, từ “tôn giáo tự nhiên” đến 
“tôn giáo tích cực” và kết thúc trong 
“tôn giáo của lý tính”. 
3. VẤN ĐỀ TÔN GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC 
Lessing (2003: 280) cho rằng mỗi 
người đều liên hệ (kết nối) với một 
“tôn giáo tự nhiên” (natürliche Religion). 
Sự đa dạng của tín ngưỡng tôn giáo 
được hình thành với việc thành lập xã 
hội dân sự nhằm tạo ra một “tôn giáo 
tích cực” (positive Religion). Tuy nhiên 
tôn giáo tốt nhất là tôn giáo chứa 
đựng ít nhất sự bổ sung đối với tôn 
giáo tự nhiên và hạn chế ít nhất sự 
ảnh hưởng tốt của tôn giáo tự nhiên” 
(G.E. Lessing, 2003: 281). 
Theo Lesing (2003: 283) “tôn giáo tự 
nhiên” là những hình thức tín ngưỡng 
tôn giáo khác nhau được hình thành 
trong “trạng thái tự nhiên” (Naturzustand), 
trước khi có khế ước xã hội. Trong 
“tôn giáo tự nhiên”, thực thể tối cao là 
kết quả của sự sáng tạo lý trí của con 
người và mọi niềm tin mâu thuẫn với 
lý trí đều bị từ chối. Khác với “tôn giáo 
tự nhiên”, “tôn giáo tích cực” được 
hình thành thông qua khế ước xã hội. 
Đó là một quá trình chuyển đổi tương 
tự như sự chuyển đổi từ luật tự nhiên 
(Naturrecht) sang luật tích cực (positives 
Recht). “Tôn giáo tích cực” đặt niềm tin 
vào sự mặc khải, và Kinh thánh, ngụ 
ngôn, phép lạ được xem là những 
sự thật và sự giáo điều của nó là 
không thể bị nghi ngờ (G.E. Lessing, 
2003: 284). 
Với Lessing, điều quan trọng nhất của 
một tôn giáo là nội dung tinh thần của 
nó được thể hiện thông qua hành vi 
đạo đức của con người. Sự tiến triển 
của ý thức đạo đức không chỉ thông 
qua sự tồn tại của các hình phạt, mà 
còn thông qua hình thức khác có thể 
đem lại hiệu quả hơn, đó là phần 
thưởng. Tuy nhiên, sự thưởng, phạt, 
chỉ là những khái niệm tương đối, bởi 
quan niệm tốt, xấu được đánh giá 
khác nhau giữa người giàu và người 
nghèo (G.E. Lessing, 2003: 470). Ông 
nhấn mạnh tính tương đối của thiện 
và ác. Hình phạt và phần thưởng 
trong Thiên Chúa giáo thể hiện rõ 
trong khái niệm vĩnh cửu về địa ngục 
và thiên đường. Theo Lessing (2003: 
482), người tốt nhất vẫn còn có nhiều 
cái xấu người tồi tệ nhất vẫn có nhiều 
cái tốt; ở thiên đường hay địa ngục, 
sau khi chết con người vẫn mang 
theo cái tốt và cái xấu. Vì vậy, tốt và 
xấu phải được hiểu là một quá trình, 
trong đó mặt tích cực và tiêu cực tác 
động, chuyển hóa lẫn nhau. Do đó, 
quan điểm cho rằng có một hình phạt 
vĩnh cửu (xuống địa ngục) được phổ 
biến cho tất cả các tôn giáo là hoàn 
toàn sai. Đây là bút chiến của 
Lessing nhằm nỗ lực xây dựng một 
đạo đức nhân văn (humanistische 
Moralität). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (263) 2020 
5 
Lessing (2003: 652) cho rằng Kitô 
giáo không phải “là một tôn giáo thực 
tiễn hợp lý” (als eine vernünftige 
praktische Religion). Đạo đức được 
xây dựng dựa trên lý tính và không 
phải là kết quả mang tính cưỡng chế 
của sự mặc khải tôn giáo. “Lý tính 
mạnh khỏe và luật tự nhiên” là “cội 
nguồn thực sự của tất cả các bổn 
phận (trách nhiệm) và đức hạnh” (Die 
gesunde Vernunft und das Naturgesetz 
seien die eigentliche Quelle aller 
Pflichten und Tugenden) (G.E. Lessing, 
2003: 657). 
Theo Lessing, sự lan tỏa của Kitô giáo 
phụ thuộc vào sự giải thích về Kinh 
thánh và sự mâu thuẫn trong việc giải 
thích vì những mục đích khác nhau đã 
dẫn đến những xung đột tôn giáo 
trong thực tiễn xã hội. Ông không 
chấp nhận sự xuyên tạc về Kinh thánh 
vì bất kỳ mục đích nào, hay việc đàn 
áp dị giáo ở các nước Công giáo, bởi 
điều đó thể hiện sự không khoan 
dung, trái ngược với tinh thần Kitô 
giáo. Tất cả đức tin phải tin vào lý tính 
và sự đàn áp tinh thần tự do là không 
thể chấp nhận. 
Đỉnh cao của những lời chỉ trích tôn 
giáo của Lessing nằm trong bài Giáo 
dục của nhân loại (Die Erziehung des 
Menschengeschlechts) được viết vào 
năm 1777 và xuất bản lần đầu vào 
năm 1780. Theo đó, tôn giáo được 
Lessing hiểu là một hình thức lịch sử 
của sự phát triển ý thức con người và 
là một nguyên tắc của giáo dục xã hội 
(historische Form der Entwicklung des 
menschlichen Bewusstseins und als 
gesellschaftliches Erziehungsprinzip). 
Ông phủ nhận tất cả các tôn giáo lập 
luận dựa trên sự mặc khải và đức tin, 
bác bỏ xu hướng giải thích sự giác 
ngộ của tôn giáo thông qua sự dối trá. 
Quá trình phát triển của sự khai sáng 
là “giáo dục” đầy đủ cho con người từ 
thời trẻ thơ về niềm tin vào thẩm 
quyền quyết định của lý tính dựa trên 
cái nhìn sâu sắc hợp lý đến khi trưởng 
thành. 
Lessing (2003: 591) cho rằng nội dung 
của mặc khải thần linh là giáo dục đạo 
đức cho nhân loại. Sự tiến hóa của 
nhân loại, thực chất là một quá trình 
giáo dục, một quá trình tiến triển tiềm 
năng bên trong của nhân loại 
(immanenten Potenzen der Menschhei), 
một quá trình đào tạo kỹ năng phổ 
quát. Tôn giáo chỉ là một phương tiện 
đơn thuần của kế hoạch giáo dục phổ 
quát này. 
Quá trình giáo dục đạo đức cho nhân 
loại - theo Lessing - trải qua ba giai 
đoạn. Giai đoạn phát triển ban đầu, 
mặc khải đã dạy những nguyên tắc 
đạo đức thông qua hình phạt và 
phần thưởng trực tiếp cảm tính 
(unmittelbare sinnliche Strafen und 
Belohnungen) (G.E. Lessing, 2003: 
594). Do Thái giáo và Cựu ước 
(Kinh Tanakh) là nền tảng cơ bản của 
giáo dục ở giai đoạn tuổi thơ. Người 
Do Thái tuân thủ, vâng phục với luật 
lệ của Thiên Chúa giáo, bởi vì đây là 
tôn giáo độc thần. 
Lessing lập luận rằng, với sự mở rộng 
hiểu biết của con người cùng với sự 
tiến bộ về tinh thần của loài người, lý 
 NGÔ THỊ MỸ DUNG – MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG 
6 
trí bắt đầu trở thành nguyên tắc cai trị. 
“Sự mặc khải đã dẫn dắt lý trí của con 
người, và bây giờ lý trí đột nhiên chiếu 
sáng sự mặc khải” (Die Offenbarung 
hatte seine Vernunft geleitet, und nun 
erhellte die Vernunft auf einmal seine 
Offenbarung) (G.E. Lessing, 2003: 
599). Bước quan trọng thứ hai trong 
sự giáo dục đạo đức của nhân loại đã 
diễn ra với sự xuất hiện của Kitô 
giáo. Ở giai đoạn này, “Chúa Kitô trở 
thành người thầy đáng tin cậy, thực tế 
đầu tiên về sự bất tử của linh hồn” 
(Christus ward der erste zuverlässige, 
praktische Lehrer der Unsterblichkeit 
der Seele) (G.E. Lessing, 2003: 605). 
Hình phạt và phần thưởng ở giai đoạn 
này không còn là trực tiếp nữa mà 
được chuyển sang thế giới bên kia. 
Theo ông (2003: 610), Kitô giáo đã tác 
động tốt đến động cơ đạo đức của 
con người và giáo lý của Ngài là “hồi 
chuông thông báo hướng đi mới cho 
lý trí con người”. Tân ước cũng chứng 
minh là những sự thật của lý 
tính. Những lời dạy của bộ ba thần 
thánh (cha, con và thánh thần) về tội 
lỗi nguyên thủy là cốt lõi đạo đức 
trong giai đoạn này và Tân ước là 
“cuốn sách thứ hai tốt nhất cho nhân 
loại” (G.E. Lessing, 2003: 607). 
Trong giai đoạn thứ ba, sẽ không còn 
phần thưởng và hình phạt nào nữa vì 
lý tính của con người phát triển đến 
mức mọi người làm điều tốt vì nó tốt. 
Lessing (2003: 609) cho rằng ba giai 
đoạn này đi qua tất cả các dân tộc, vì 
vậy người ta có thể nhận ra mức độ 
phát triển lý tính của họ từ các hình 
thức tôn giáo của chính họ. Như vậy 
khái niệm cuối cùng của Lessing về 
tôn giáo được lập luận dựa trên ý thức 
hành vi đạo đức - giai đoạn mà lý tính 
phù hợp với sự tự quyết của con người. 
Nhìn chung triết học tôn giáo của 
Lessing chống lại niềm tin vào sự mặc 
khải và tin tưởng vào một “tôn giáo 
của lý tính”. Sự mặc khải thiêng liêng 
chỉ xuất hiện như một sự phản ánh 
của các giai đoạn phát triển tương 
ứng với sự phát triển của lý tính con 
người. Ông xem sự hình thành và 
phát triển của tôn giáo như một sự 
thật lịch sử, có giới hạn về thời gian, 
trong khi đó lý tính là vĩnh cửu. Sự 
phát triển của các hình thức tôn giáo 
phản ánh sự phát triển tích cực của lý 
tính loài người là luôn hướng tới sự 
hoàn thiện. Đối với ông, niềm tin vào 
một cuộc sống tốt đẹp hơn là một quy 
luật tự nhiên của con người. 
Tư tưởng tôn giáo của ông, một mặt 
phê phán những quan điểm cực đoan, 
giáo điều về tôn giáo, mặt khác khẳng 
định tính lịch sử và những ảnh hưởng 
tích cực (lòng khoan dung, tình yêu 
thương) đối với đời sống tinh thần của 
con người, xem tôn giáo như là một 
hình thức không thể thiếu trong tiến 
trình phát triển của tinh thần - đạo đức 
loài người. Với Giáo dục của nhân 
loại, Lessing đã đánh dấu một quá 
trình giải thể (loại bỏ) thần học trong 
triết học của giai cấp tư sản Đức thế 
kỷ XVIII dựa trên nền tảng của tư 
tưởng triết học về quyền tự quyết của 
lý tính con người - hạt nhân tư tưởng 
phê bình tôn giáo của ông. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (263) 2020 
7 
4. KẾT LUẬN 
Là đại biểu xuất sắc của phong trào 
khai sáng Đức thế kỷ XVIII với những 
bài phê bình về văn học, quan điểm 
về tôn giáo và những công trình lý 
luận nghệ thuật nổi tiếng, Lessing đã 
để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tư 
tưởng triết học Đức nói riêng và tinh 
thần của dân tộc Đức nói chung. Phê 
phán tôn giáo nhưng Lessing cũng 
nhìn nhận sự đóng góp của tôn giáo 
đối với tiến trình phát triển của lịch sử 
tinh thần nhân loại. Lessing cho rằng 
nội dung cốt lõi của tôn giáo là sự 
khoan dung cùng những giá trị đạo 
đức nhân văn, ông kiên quyết bác bỏ 
sự xuyên tạc về Kinh thánh cũng như 
sự đàn áp dị giáo ở các nước Kitô 
giáo, bởi điều đó thể hiện sự không 
khoan dung, trái ngược với tinh thần 
Kitô giáo. 
Với Lessing, tất cả đức tin phải tin vào 
lý tính con người, vì vậy, sự đàn áp tự 
do tinh thần là không thể chấp nhận 
được. Quan điểm tôn giáo của 
Lessing là giải phóng con người khỏi 
niềm tin mù quáng, giáo điều, bác bỏ 
sự mặc khải, xây dựng “tôn giáo của 
lý tính” mà mục đích của nó là giáo 
dục đạo đức cho nhân loại, hướng 
con người sống và hành động vì sự 
bình đẳng giữa các dân tộc và sự tôn 
trọng lẫn nhau.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Hirschberger, Johannes Hirschberger. 1991. Geschichte der Philosophie (Lịch sử triết 
học). Bd. 2. Freiburg: Herder. 
2. Lessing, Gotthold Ephraim Lessing. 2003. Werke und Briefe (Tác phẩm và thư từ). 14 
Bände. Hrsg. v. Wilfried Barner. Frankfurt am Main: Deutscher Klassiker. 
3. Lutz, Bernd. 1995. Metzler - Philosophen - Lexikon (Metzler - Các nhà triết học - 
Lexicon). Weimar: Metzler. 
4. Wolff, Christian. 1980. Grundsätze des Natur-und Völkerrechts (Những nguyên tắc cơ 
bản của luật tự nhiên và luật quốc tế). Bd. 19. Hildesheim: Newyord. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_noi_dung_co_ban_trong_triet_hoc_ton_giao_cua_gotthold.pdf