Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới

Thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước trong thời gian qua

của Đảng cho phép khẳng định, việc quán triệt phép biện chứng duy vật vào

việc hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới là một trong những điều

kiện bảo đảm nâng cao tính hiệu quả lãnh đạo của Đảng và sự phát triển của

đất nước. Muốn đạt được điều đó, Đảng ta phải không ngừng nâng cao hiệu

quả vận dụng phép biện chứng duy vật trong quá trình lãnh đạo cách mạng

bằng cách Đảng ta không ngừng trau dồi, nâng cao năng lực nhận thức về mâu

thuẫn gắn với thực tiễn của đổi mới.

Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới trang 1

Trang 1

Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới trang 2

Trang 2

Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới trang 3

Trang 3

Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới trang 4

Trang 4

Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới trang 5

Trang 5

Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới trang 6

Trang 6

Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 3560
Bạn đang xem tài liệu "Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới

Một số mâu thuẫn đặt ra về việc vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới
g 
lý luận vào thực tiễn chỉ đạt hiệu quả khi 
lý luận đó được nhận thức sâu sắc, thấm 
sâu vào trong đầu óc của con người. 
Ngược lại, một khi lý luận chưa được 
nhận thức sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn thì 
con người không thể vận dụng một cách 
nhuần nhuyễn vào thực tiễn. 
Trong thực tiễn cải tạo xã hội, con 
đường gần nhất dẫn người ta đến chỗ 
vấp ngã là do thiếu sự chỉ dẫn của lý 
luận, phương pháp luận khoa học. Lý 
luận là "kim chỉ nam" cho hoạt động, soi 
đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin 
khẳng định: Không có lý luận cách 
mạng thì cũng không thể có phong trào 
cách mạng. Lý luận khoa học làm cho 
con người trong hoạt động của mình trở 
nên chủ động, hạn chế tình trạng mò 
mẫm. Vì vậy, Hồ Chí Minh ví "không có 
lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà 
đi" [7, tr. 234]. Cũng do thiếu lý luận và 
phương pháp luận khoa học mà trong 
hoạt động thực tiễn, con người dễ sa ngã 
vào bệnh chủ quan, bệnh giáo điều, bệnh 
kinh nghiệm và sự tự ti, v.v... và v.v... 
Theo nhận xét của nhiều nhà khoa 
học thì, nếu không dừng lại ở từng cá 
nhân, nhìn chung tư duy lý luận của cán 
bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay còn 
những hạn chế đáng kể. 
Do nhiều nguyên nhân khác nhau 
nên trong suốt thời kỳ cách mạng giải 
phóng dân tộc cho đến trước đổi mới, 
hoạt động nghiên cứu lý luận của cán bộ, 
đảng viên còn rất hạn chế. Bước vào đổi 
mới, hoạt động nghiên cứu lý luận được 
đẩy mạnh hơn, nhưng nhìn chung hiệu 
quả thu được còn ở mức khiêm tốn. Hoạt 
động nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, 
trong đó có phép biện chứng duy vật cũng 
trong tình hình chung đó. Hơn nữa, khoa 
học Mác - Lênin nói chung, phép biện 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 32 
chứng duy vật nói riêng với tính đặc thù 
về nội dung và hình thức vốn đã rất khó 
thấu hiểu ngay cả đối với những chuyên 
gia chuyên ngành thì lại càng khó khăn 
đối với những cán bộ, đảng viên trong 
những lĩnh vực chuyên biệt khác. Đảng 
ta xác nhận "Trình độ kiến thức, năng 
lực lãnh đạo của Đảng có mặt còn chưa 
theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới" 
[1, tr. 44]. Do đó Đảng ta chỉ ra biện 
pháp khắc phục là "mỗi cán bộ, đảng 
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, chủ 
chốt, phải gương mẫu học tập, rèn luyện, 
phấn đấu nâng cao trình độ về mọi 
mặt..." [2, tr. 50]. 
Nhìn chung, cùng với đổi mới và vì 
đổi mới, Đảng ta nói chung và cán bộ, 
đảng viên của Đảng nói riêng đã cố gắng 
nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, 
trong đó có phép biện chứng duy vật, 
nhằm tăng cường sự linh hoạt trong xử 
lý những vấn đề mà cuộc sống đặt ra. 
Tuy nhiên, mặc dù có sự cố gắng đó, 
nhưng nhìn chung mức độ nắm bắt khoa 
học Mác - Lênin nói chung, phép biện 
chứng duy vật nói riêng của Đảng ta còn 
chưa đáp ứng được sự nghiệp đổi mới, 
đòi hỏi phải cố gắng nhiều hơn nữa. 
Thực tiễn lãnh đạo đổi mới đất 
nước cũng đã làm cho Đảng ta nhận thức 
rõ hơn về vai trò của phép biện chứng 
duy vật cũng như nhận thấy những thiếu 
hụt của mình trong quá trình vận dụng 
phép biện chứng duy vật và Đảng có trách 
nhiệm sửa chữa những yếu kém của mình. 
"Chúng ta không sợ sai lầm và khuyết 
điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa 
chữa sai lầm và khuyết điểm" [3, tr. 38]. 
Một trong những giải pháp nhằm khắc 
phục những hạn chế trên đây được Đại 
hội lần thứ IX của Đảng chỉ ra: "Từ nay 
đến năm 2005, phần lớn cán bộ, lãnh 
đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên học 
xong chương trình cao cấp về lý luận 
chính trị và có trình độ đại học về một 
chuyên ngành nhất định" [4, tr. 142]. 
Mặc dù nếu chỉ với một giải pháp này 
thì chưa đủ để Đảng ta nâng cao trình độ 
lý luận cũng như khả năng vận dụng 
sáng tạo phép biện chứng duy vật của 
mình. Nhưng, chúng ta mong rằng giải 
pháp khả thi trên đây của Đảng ta sẽ 
được triển khai nghiêm túc trên thực tế, 
góp phần nâng cao trình độ lý luận của 
Đảng ta nói chung, góp phần nâng cao 
hiệu quả việc vận dụng phép biện chứng 
duy vật trong sự nghiệp đổi mới ở nước 
ta hiện nay nói riêng. 
3. Mâu thuẫn giữa việc vận dụng phép 
biện chứng duy vật với những huynh 
hƣớng tƣ tƣởng sai lầm trong Đảng. 
Trên thực tế, như đã đề cập, trong 
hoạch định và chỉ đạo đường lối, nghị 
quyết, chính sách đổi mới còn nhiều sai 
sót mang nặng thói quen trì trệ trong tư 
duy. Đảng ta chủ trương thiết lập cơ chế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Cơ chế mới này với tư cách là cái khẳng 
định, nó phủ định cơ chế cũ - cơ chế tập 
trung, quan liêu, bao cấp, đồng thời là sự 
phủ định đối với thói quen tư duy kiểu cũ 
- sản phẩm của chính cơ chế cũ. Nhưng 
trên thực tế, không những cơ chế cũ đã 
được hoàn toàn xóa bỏ mà ngược lại, như 
đã đề cập, xu hướng quay trở lại cơ chế 
tập trung, quan liêu, bao cấp ở một mức 
độ nào đó vẫn đang tồn tại ở nước ta 
hiện nay. Chừng nào chưa loại bỏ hoàn 
toàn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp 
ra khỏi đời sống kinh tế - xã hội thì 
chừng ấy những sản phẩm của nó, trong 
đó có thói quen tư duy "kiểu cũ" còn 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 33 
chưa được khắc phục hoàn toàn. Thực 
tiễn đã chứng tỏ, chủ nghĩa chủ quan 
duy ý chí không những đã dẫn đến nhiều 
sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng trong 
xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn là trở 
ngại cho việc nâng cao năng lực tư duy 
biện chứng khoa học, khả năng vận dụng 
linh hoạt phép biện chứng duy vật vào 
việc phát triển đất nước. Những hạn chế, 
những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội 
hiện thực, do điều kiện lịch sử cũng như 
sai lầm chủ quan gây nên cũng được 
phản ánh vào tư duy lý luận, chi phối 
quá trình phát triển đất nước. Thực tế 
cũng đã chứng tỏ, cơ chế quản lý kinh tế 
và quản lý xã hội mang tính chất tập 
trung quan liêu là trở lực to lớn đối với 
sự phát triển năng lực sáng tạo của con 
người, của tư duy lý luận. Cơ chế đó 
cũng kéo theo thói quen "lười suy nghĩ" 
hành động theo lối cảm tính, thụ động, 
khi xuất hiện tình huống, những người 
làm công tác lãnh đạo, chỉ đạo khó có 
thể nhanh nhạy trong phân tích thấu đáo 
vấn đề, và do đó không thể có giải pháp 
tích cực làm thay đổi tình hình theo 
chiều hướng phù hợp với yêu cầu của 
thực tiễn. Hơn nữa, như V.I. Lênin đã 
viết: 
Những quan hệ kinh tế lạc hậu hay 
chậm phát triển thường xuyên dẫn tới 
chỗ là, trong phong trào công nhân, xuất 
hiện những phần tử chỉ lĩnh hội được 
một số khía cạnh của chủ nghĩa Mác, 
một số bộ phận riêng biệt của thế giới 
quan mới, hoặc một số khẩu hiệu và yêu 
sách riêng biệt, mà lại không thể đoạn 
tuyệt dứt khoát với tất cả những truyền 
thống của thế giới quan tư sản nói chung 
và thế giới quan dân chủ - tư sản nói 
riêng [5, tr. 77]. 
Chúng ta cũng biết rằng, chủ nghĩa 
chủ quan trong tư duy chính trị và bệnh 
giáo điều, bệnh kinh nghiệm trong hoạt 
động chính trị thực tiễn là cản trở trực 
tiếp và chủ yếu đối với hoạt động chính 
trị thực tiễn. Đến lượt mình, hoạt động 
chính trị thực tiễn đã trở thành một trong 
những nguyên nhân dẫn đến sự khủng 
hoảng về kinh tế - xã hội ở nước ta thời 
kỳ trước đổi mới. Ngày nay, trong sự 
nghiệp đổi mới, chủ nghĩa chủ quan, 
bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm vẫn 
chưa hoàn toàn được khắc phục. 
Có thể nói, chừng nào chủ nghĩa 
chủ quan, bệnh giáo điều và bệnh kinh 
nghiệm... chưa được khắc phục hoàn 
toàn thì chừng đó còn cản trở việc vận 
dụng phép biện chứng duy vật trong quá 
trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh 
tế - xã hội của đổi mới. 
Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh 
rằng, sự nghiệp đổi mới của chúng ta 
càng đi vào chiều sâu thì càng làm xuất 
hiện những vấn đề phức tạp, đòi hỏi 
phải được lý giải sáng tỏ về mặt lý luận 
làm cơ sở cho việc hoạch định đường 
lối, chính sách của đổi mới. Hơn nữa, 
đặc điểm của thời đại ngày nay là sự 
tương tác giữa hai quá trình cách mạng 
- cách mạng khoa học công nghệ và 
cách mạng xã hội, đang tạo nên sự biến 
đổi rất năng động của đời sống thế 
giới. Đối với nước ta, cuộc cách mạng 
công nghệ đang mở ra một cơ hội lớn 
để chúng ta "đi tắt, đón đầu". Nhưng 
cũng chính cuộc cách mạng đó đem lại 
cho chúng ta những mâu thuẫn mới 
trong việc lựa chọn công nghệ sao cho 
phù hợp, đồng thời phải tính đến những 
hậu quả mà có thể cách mạng khoa học 
công nghệ đem lại. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 34 
Những đặc điểm trên đây là hiện 
thực khách quan của đổi mới. Bản thân 
hiện thực đó sẽ còn tiếp tục vận động 
vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của tư 
duy không biện chứng. Tính biện chứng 
của sự tiến hóa xã hội diễn ra trong 
những mâu thuẫn và thông qua các mâu 
thuẫn của sự nghiệp đổi mới cũng là một 
trong những nguồn gốc nảy sinh những 
khuynh hướng sai lầm khác nhau, thậm 
chí đi tới "xét lại" trong không ít cán bộ, 
đảng viên như Đảng ta đã từng cảnh báo. 
Do quá quen thuộc trong môi trường tập 
trung quan liêu, bao cấp, ưa hưởng thụ 
hơn là lao động, cống hiến, lại trì trệ bảo 
thủ trong việc rèn luyện trong thực tiễn, 
lười biếng trong tư duy lý luận, đứng 
trước những khó khăn tạm thời của đất 
nước mà sự nghiệp đổi mới đang phải 
trải qua, những người này dễ dẫn đến 
chỗ sa ngã, xét lại. 
Theo nhận xét của Ban Tư tưởng - 
Văn hóa Trung ương thì: Một bộ phận 
cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng 
cách mạng, mơ hồ, dao động mục tiêu 
xã hội chủ nghĩa. Tình trạng nhạt chính 
trị, ít quan tâm đến chính trị, nặng kinh 
tế, làm ăn, vun vén cá nhân diễn ra ở 
không ít cán bộ, đảng viên. 
Một số cán bộ, đảng viên có những 
biểu hiện cơ hội dưới nhiều hình thức. 
Trong đó có người bác bỏ toàn bộ, hoặc 
từng bộ phận, hoặc bác bỏ cái họ gọi là 
"vai trò độc tôn chân lý" của chủ nghĩa 
Mác - Lênin, đặt ngang hàng chủ nghĩa 
Mác - Lênin với các học thuyết, lý luận 
chính trị, xã hội khác; quy kết sự lãnh 
đạo của Đảng là "chế độ đảng trị", có 
người công khai "sám hối", có kẻ "chia 
tay ý thức hệ", đòi đa nguyên, tự do, dân 
chủ tuyệt đối, phản đối nguyên tắc tập 
trung dân chủ, chủ trương tư nhân hóa 
nền kinh tế... Xong thực chất, quan điểm 
của số này là quan điểm tư sản đang 
được một số thế lực dùng để chống lại 
chúng ta. 
Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban 
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII 
đã chỉ ra: Một số ít cán bộ, đảng viên, có 
cả một số cán bộ hoạt động lâu năm, do 
bất mãn cá nhân, cơ hội, hoặc do thiếu 
thông tin, nhận thức không đầy đủ, được 
nước ngoài tâng bốc, tạo dựng, đã tự do 
phát tán tài liệu, truyền bá những quan 
điểm sai trái với Cương lĩnh, Điều lệ 
Đảng, Hiến pháp Nhà nước. Số này 
không nhiều nhưng rất nguy hại. 
Thực tiễn đấu tranh giải phóng dân 
tộc, nhất là công cuộc đấu tranh bảo vệ 
và xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi 
Đảng ta phải nắm vững lý luận của chủ 
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí 
Minh. Trước hết, phải thấm nhuần thế giới 
quan duy vật và phương pháp biện chứng 
khoa học của nó (cả những thành công 
cũng như những mặt còn hạn chế trong 
quá trình đổi mới chứng tỏ sự cần thiết 
phải kiên quyết đấu tranh chống chủ 
nghĩa xét lại), đồng thời khắc phục chủ 
nghĩa chủ quan, bệnh giáo điều và bệnh 
kinh nghiệm trong việc vận dụng phép 
biện chứng duy vật vào thực tiễn đổi mới 
đất nước. Chúng ta không thể đổi mới 
thành công nếu xa rời phép biện chứng 
duy vật, rơi vào chủ nghĩa chủ quan, 
bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm và 
chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa chủ quan và 
bệnh giáo điều còn dẫn đến sự vận dụng 
lý luận theo lối chủ nghĩa chiết trung, 
mà đó lại là cách xuyên tạc chủ nghĩa 
Mác - Lênin của chủ nghĩa cơ hội. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 35 
Trong việc xuyên tạc chủ nghĩa 
Mác theo cách cơ hội chủ nghĩa thì việc 
dùng chủ nghĩa chiết trung để xuyên tạc 
phép biện chứng là dễ đánh lừa quần 
chúng hơn cả, nó làm cho quần chúng 
tựa hồ như được thỏa mãn; nó làm ra vẻ 
xét đến mọi phương diện của quá trình, 
mọi xu hướng của sự phát triển, mọi 
ảnh hưởng có tính chất mâu thuẫn... 
nhưng kỳ thực, nó không đưa ra được 
một quan niệm nào hoàn chỉnh và cách 
mạng về quá trình phát triển của xã hội 
[6, tr. 27]. 
Đương nhiên, những vấn đề mà sự 
nghiệp đổi mới đang đặt ra không thể giải 
quyết được chỉ bằng phép biện chứng duy 
vật và bản thân việc Đảng ta vận dụng 
phép biện chứng duy vật trong quá trình 
đổi mới đất nước cũng cần được đổi mới 
để phát triển. Việc tìm giải pháp cho 
những vấn đề mà sự nghiệp đổi mới đất 
nước cũng như việc nâng cao hiệu quả 
vận dụng phép biện chứng duy vật của 
Đảng ta không thể không liên quan đến 
những giải pháp thích hợp. 
4. Kết luận 
Nhờ vận dụng sáng tạo phép biện 
chứng duy vật, Đảng ta đã thành công 
trong những quyết định chính trị của 
mình liên quan đến sự phát triển của đất 
nước với những nội dung lớn như sau: 
- Đổi mới quan niệm về chủ nghĩa 
xã hội và ngày càng làm sáng tỏ con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 
làm cơ sở cho mọi hoạch định trên những 
lĩnh vực lớn của công cuộc đổi mới. 
- Nhờ vận dụng phép biện chứng 
mà Đảng ta đã đi đến quyết định đổi mới 
căn bản và toàn diện tất cả các mặt của 
đời sống xã hội. Quyết định này rất quan 
trọng bởi nó tránh cho Đảng ta những sai 
lầm về chính trị, đồng thời phản ánh 
đúng những nội dung phải đổi mới; từ 
đó mở ra định hướng cho sự phát triển 
toàn diện, sâu sắc và triệt để trên mọi 
bình diện của đất nước. 
- Kết hợp biện chứng giữa đổi 
mới kinh tế với đổi mới chính trị, trong 
đó đổi mới kinh tế là bước đột phá. Dựa 
trên sự phát triển của kinh tế mà từng 
bước đổi mới chính trị. Sự kết hợp hài 
hòa này phản ánh đúng đắn hiện thực 
của những vấn đề hệ trọng của đất nước. 
Thực tế đổi mới ở nước ta đã chứng tỏ 
sự lựa chọn trên đây của Đảng ta là sự 
lựa chọn duy nhất đúng đắn. 
- Phát triển kinh tế đi đôi với giải 
quyết các vấn đề xã hội trong từng bước 
và trong cả quá trình. Trong điều kiện cụ 
thể của nước ta, nếu chúng ta lựa chọn 
hoặc là ưu tiên kinh tế, hoặc ưu tiên xã hội 
đều sai lầm, đều chệch định hướng xã hội 
chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước 
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn 
minh. Phát triển kinh tế đi đôi với giải 
quyết những vấn đề xã hội là một nội 
dung chủ yếu xuyên suốt của chủ nghĩa xã 
hội ở Việt Nam, đồng thời là biểu hiện 
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1991. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành 
Trung ương khóa VII, NXB Sự thật, Hà Nội. 
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1996. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, 
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 36 
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1996. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành 
Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1999. Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành 
Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5]. V.I. Lênin. 1981. Toàn tập, tập 20, NXB Tiến bộ, Mátxcơva. 
[6]. V.I. Lênin. 1976. Toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ, Mátxcơva. 
[7]. Hồ Chí Minh. 1996. Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_mau_thuan_dat_ra_ve_viec_van_dung_phep_bien_chung_duy.pdf