Một số khó khăn ảnh hưởng đến chương trình xâu dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên và phương hướng khắc phục
Sau hơn 5 năm triển khai, chương trình xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn
Tây Nguyên đã đạt được nhiều kết quả tích cực, qua đó từng bước thay đổi bộ mặt kinh
tế − xã hội tại các vùng nông thôn. Tuy nhiên, những thành quả đạt được còn khiêm tốn
so với mức trung bình của cả nước. Bài viết chỉ ra và phân tích những khó khăn đã và
đang cản trở việc thực hiện những tiêu chí về nông thôn mới trên địa bàn, trên cơ sở đó,
đề xuất một số hướng giải quyết nhằm khắc phục khó khăn, đẩy mạnh công cuộc xây
dựng nông thôn mới, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số khó khăn ảnh hưởng đến chương trình xâu dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên và phương hướng khắc phục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số khó khăn ảnh hưởng đến chương trình xâu dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên và phương hướng khắc phục
ng như hoàn cảnh của dân, lắng nghe ý kiến đóng góp của dân và phải đầu tàu gương mẫu trong mọi công việc. Bên cạnh đó, phương pháp tuyên truyền phải đa dạng, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc phát huy vai trò của những người có uy tín, có ảnh hưởng trong cộng đồng. 2.2.2. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá các dân tộc thiểu số gắn với giải quyết vấn đề tôn giáo Văn hoá là mục tiêu và là động lực của sự phát triển bền vững. Bởi vậy, để phát triển bền vững Tây Nguyên, không thể không quan tâm công tác bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc. Đây cũng chính là một nội dung quan trọng trong xây dựng nông thôn mới. Thực tế cho thấy, việc bảo tồn và phát huy văn hoá Tây Nguyên trong dòng chảy cuộc sống hiện đại là vấn đề rất khó khăn. Thời gian qua, các địa phương đã có nhiều nỗ lực bảo tồn di sản văn hoá Tây Nguyên như sưu tầm, truyền dạy hát kể sử thi; bảo tồn không gian văn hoá cồng chiêng, nhà rông, nhà dài; phục dựng lễ hội truyền thống... Tuy nhiên, do nhiều lí do nhiệm vụ này mới chỉ đạt được những kết quả khiêm tốn. Văn hoá Tây Nguyên nhiều nơi mới chỉ dừng ở những hoạt động mang tính chất biểu diễn, phong trào như các festival, lễ hội, cuộc thi hay phục vụ du lịch... mà ít được duy trì trong đời sống cộng đồng. Bên cạnh đó, tình hình tôn giáo Tây Nguyên rất phức tạp, các thế lực xấu thường xuyên lợi dụng tín ngưỡng − tôn giáo để kích động chia rẽ, ly khai. Do đó, bên cạnh việc bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống phải đặc biệt quan tâm giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, làm cho tín ngưỡng tôn giáo thực sự trở thành một bộ phận tích cực trong đời sống văn hoá của đồng bào. Trước tình hình đó, xin có một số đề xuất sau đây: Thứ nhất, tăng cường thêm nguồn lực cho bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá. Làm tốt hơn việc bảo vệ, trùng tu, tôn tạo các di tích, di sản văn hoá; đẩy mạnh công tác sưu tầm, biên dịch các làn điệu dân ca, sử thi; bảo tồn, phục chế các loại nhạc cụ dân tộc. Phát huy có hiệu quả giá trị của các di sản văn hoá địa phương để một mặt khơi dậy và phát huy truyền thống lịch sử văn hoá của dân tộc, mặt khác góp phần phát triển kinh tế − xã hội của vùng. Gắn việc nghiên cứu, cải tiến, giúp đỡ, phát triển các mặt hàng thủ công mĩ nghệ truyền thống của đồng bào với duc lịch và thương mại... với việc nâng cao chính sách đãi ngộ đối với những người quản lí, khai thác di sản và đối với các nghệ nhân. 148 TRNG I HC TH H NI Thứ hai, tạo điều kiện cho đồng bào giao lưu, tiếp biến, làm giàu thêm giá trị văn hoá của mình thông qua bưu điện văn hoá, tủ sách thôn, bản để đảm bảo có sách, báo, tiến tới có đủ phương tiện nghe nhìn... qua đó, giúp đồng bào có điều kiện hưởng thụ các thành tựu văn hoá, nâng cao dân trí. Bảo tồn và phát huy giá trị của các lễ hội tín ngưỡng, các trò chơi dân gian như: Lễ hội đua voi, sử thi của các dân tộc Êđê, M’nông, lễ cúng sức khỏe cho voi, lễ mừng cơm mới... Qua đó, giới thiệu những giá trị văn hoá đặc trưng của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với đồng bào cả nước và cộng đồng quốc tế; đồng thời giới thiệu và khẳng định các giá trị văn hoá đặc trưng đó. Thứ ba, nâng cao nhận thức đúng đắn của đồng bào về những giá trị văn hoá của dân tộc mình. Đồng thời, thực hiện tốt hơn nữa chính sách xoá đói, giảm nghèo, tạo điều kiện để đồng bào phát huy vai trò trong việc giữ gìn, bảo tồn, hưởng thụ những giá trị văn hoá, thúc đẩy tinh thần cạnh tranh để nâng cao vị thế văn hoá đặc trưng của các dân tộc thiểu số Đăk Lăk trước đồng bào cả nước và cộng đồng quốc tế. Thứ tư, đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo tôn giáo, Nhà nước cùng một lúc phải thực hiện hai chính sách: Dân tộc và Tôn giáo. Chính quyền địa phương không được phân biệt đối xử giữa những người theo tôn giáo và những người không theo theo tôn giáo, giữa những người dân tộc thiểu số theo tôn giáo và người Kinh theo tôn giáo. Cần thực hiện tốt những nội dung, yêu cầu trong Chỉ thị 01/CT − TTg ngày 4/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin Lành, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào theo đạo được sinh hoạt tôn giáo bình thường theo hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền cho nhân dân hiểu những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, đặc biệt là bọn phản động Fulro, hiểu được bản chất của "Tin Lành Đề-ga", phát động nhân dân tố giác khi có hiện tượng kẻ xấu trà trộn vào địa bàn. 2.2.3. Chú trọng đột phá tiêu chí giao thông Chương trình xây dựng Nông thôn mới có nhiều tiêu chí, trong đó phát triển đồng bộ hạ tầng giao thông là tiêu chí quan trọng, mang tính đột phá, tạo tiền đề cho thực hiện một số tiêu chí khác và có tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế − xã hội của nhân dân. Điều này càng có ý nghĩa lớn đối với Tây Nguyên là địa bàn rộng, giao thông đi lại từ trung tâm xã tới thôn, cũng như giao thông giữa các thôn còn nhiều khó khăn, chủ yếu là đường nền đất. Có những thôn cách xa trung tâm xã tới hàng chục km, về mùa mưa việc đi lại thường bị chia cắt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến giao lưu buôn bán và học hành của con em. Tuy nhiên, đây là tiêu chí khó vì đòi hỏi nguồn kinh phí rất lớn, do đó cần sự chung tay góp sức của nhân dân. Công tác tuyên truyền vận động nhân dân phải được quan tâm hàng đầu bởi kinh phí đầu tư từ ngân sách có hạn, nhân dân phải tham gia đóng góp rất TP CH KHOA HC − S 9/2016 149 nhiều cả về sức người và sức của. Khó khăn ấy nếu không được nhân dân ủng hộ, không huy động được sức dân thì không thể hoàn thành. Vì thế, trước tiên phải làm sao cho dân hiểu những lợi ích quan trọng của con đường nông thôn mới: trước là đi lại dễ dàng, sau nữa là thuận lợi trong giao lưu buôn bán, con em đi học đỡ vất vả, mang lại nhiều lợi ích cho con cháu..., chỉ khi thấy được lợi ích thiết thân, nhân dân mới tích cực ủng hộ. Nói về việc nhân dân tự nguyện hiến đất, tự nguyện tháo dỡ các công trình cho mở rộng mặt đường, ông Nguyễn Văn Nhị, Bí thư chi bộ thôn 7b, xã Ea Ô (xã đầu tiên của huyện Ea Kar, tỉnh Đăk Lăk, đạt chuẩn nông thôn mới) cho biết: "Khi bà con trong thôn hiểu rõ lợi ích của chương trình xây dựng nông thôn mới, trong đó có tiêu chí về phát triển giao thông thì rất hào hứng, phấn khởi và tin tưởng và sự thành công của chương trình. Bà con đã hăng hái góp đất, tự nguyện chặt bỏ cây trồng để mở mang đường đi lối lại rộng rãi, phong quang..." [7]. Hiểu được mục tiêu của chương trình xây dựng nông thôn mới là mang lại sự đổi thay, tiến bộ, no ấm cho chính người dân, nên nhiều hộ dân ở Ea Ô đã không ngần ngại hiến cả nghìn mét vuông đất để phát triển giao thông nông thôn. Nhiều cán bộ, đảng viên gương mẫu đi đầu hiến đất, phá bỏ cây trồng để người dân noi theo. Từ thực tiễn vận động nhân dân thực hiện tiêu chí về giao thông, Ea Ô đã đề xuất với Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của huyện và của tỉnh, cho áp dụng cơ chế trong xây dựng các công trình còn lại với phương châm: Kinh phí trên cấp, người dân bỏ công lao động "xã có công trình, dân có việc làm", vừa tiết kiệm được các khoản chi bất hợp lí, chống thất thoát, vừa phát huy quyền làm chủ của dân, đồng thời bảo đảm được tiến độ và chất lượng công trình. Với phương châm "Dân hiểu, dân tin, dân chung sức đồng lòng...", chỉ trong thời gian ngắn, toàn bộ hệ thống đường giao thông gồm 90km đường liên thôn và nội thôn trong xã Ea Ô đã được quy hoạch, mở rộng. Mặc dầu chưa xây dựng kiên cố, nhưng bước đầu đã hình thành hệ thống giao thông thực sự thông thoáng, thuận tiện. Ea Ô chính là một điển hình tiên tiến trong tiêu chí giao thông, từ đó dấy lên phong trào hiến đất, hiến tài sản để giải toả mặt bằng, xây dựng đường giao thông trên toàn Đăk Lăk. 2.2.4. Khoan thư sức dân kết hợp việc huy động nhiều nguồn lực Chương trình xây dựng Nông thôn mới ở Tây Nguyên cần rất nhiều nguồn lực, trong đó những tiêu chí về hạ tầng giao thông, về xây dựng các thiết chế văn hoá cơ sở..., cần nguồn kinh phí rất lớn. Quá nhiều việc phải làm, ngân sách nhà nước hạn chế trong khi thu nhập của nhân dân còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, khả năng đóng góp của nhân dân không nhiều. Trong bối cảnh đó, nếu chính quyền địa phương áp đặt ý muốn chủ quan, bắt dân đóng góp quá nhiều thì không những bần cùng hoá nhân dân, đi ngược lại mục tiêu của 150 TRNG I HC TH H NI phong trào, mà còn làm nảy sinh tâm lí bất mãn trong dân, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng. Tình trạng "sưu cao thuế nặng" tại một số địa phương tỉnh Thanh Hoá trong thời gian vừa qua là một bài học rất quan trọng trong việc huy động sức dân. Sự việc này đã gây bức xúc, bất bình trong xã hội. Có người còn ví với sự xuất hiện trở lại của một bộ phận "cường hào, ác bá" thời phong kiến ở nông thôn trong thời kì văn minh. Theo ông Lê Văn Cuông (nguyên Phó đoàn ĐBQH khoá XI tỉnh Thanh Hoá, là ĐBQH các khoá XI,XII): "Một bộ phận chính quyền cơ sở muốn có khoản thu khác để tự tung, tự tác, giải quyết lợi ích cá nhân, cho nên họ đặt ra các khoản thu bất hợp pháp. Họ lấy lí do là đồng thuận của dân nhưng phải xem có thực tế như vậy không hay là có sức ép nào đó, bắt dân phải đồng thuận để lấy cơ sở đó nhằm đè đầu, cưỡi cổ để tận thu" [1]. Tình trạng "tận thu" này có lẽ không riêng ở Thanh Hoá mà còn khá phổ biến ở nhiều nơi khác. Do đó, song song với việc phát huy phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" thì cũng phải "Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc" (Trần Hưng Đạo). Muốn vậy, trước hết, phải nắm rõ thực trạng đời sống kinh tế cũng như thu nhập của nhân dân trên địa bàn, từ đó lựa chọn cách làm vừa sức với đóng góp của nhân dân. Bên cạnh đó cần có chính sách riêng đối với những hộ gia đình khó khăn: có thể giảm mức đóng góp, thay vào đó là ngày công lao động, hoặc xã ứng kinh phí trước, sau đó người dân sẽ thanh toán theo từng đợt... Cũng không nên chạy đua theo thành tích để tránh tình trạng nợ đọng kéo dài sau khi xây dựng nông thôn mới như nhiều địa phương hiện nay. Ngoài những đóng góp của nhân dân cần đa dạng hoá các nguồn lực, đẩy mạnh thực hiện chính sách thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, liên kết với các xã nông thôn mới. Sử dụng có hiệu quả các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; các khoản huy động hợp pháp khác để thực hiện xây nông thôn mới tại cơ sở. Vấn đề là phải công khai minh bạch những khoản đóng góp này trên các bảng tin hoặc đăng tải trên cổng thông tin điện tử của địa phương (nếu có). Thường xuyên cập nhật thông tin về thu − chi. Bên cạnh đó cần tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc quản lí, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp cho Chương trình theo kế hoạch hằng năm; đảm bảo việc đầu tư hiệu quả, đúng trọng tâm theo kế hoạch đã đề ra trong Đề án xây dựng nông thôn mới. Trong giai đoạn 2016 − 2020, mỗi huyện, xã cần lập kế hoạch cụ thể trong cân đối nguồn vốn. Mỗi huyện cần đề ra số xã phấn đấu đạt trong năm nay, các xã này còn tiêu chí nào chưa đạt? Huy động vốn thế nào? Nguồn vốn nào địa phương có thể cân đối được? Kế hoạch huy động vốn trong doanh nghiệp, dân đóng góp được bao nhiêu? Đây là những cơ sở quan trọng để các tỉnh chủ động trong bố trí nguồn lực xây dựng nông thôn mới cho phù hợp. TP CH KHOA HC − S 9/2016 151 Ngoài ra, cần lồng ghép tốt các nguồn vốn từ các chương trình, dự án khác trên địa bàn với nguồn vốn thuộc Chương trình nông thôn mới để phát huy hiệu quả đầu tư. Song song với đó cần thực hiện tiết kiệm trong các khoản chi ngân sách thường xuyên. Đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Chương trình xây dựng nông thôn mới cần ưu tiên đầu tư tập trung cho các xã đăng kí đạt chuẩn. Thêm nữa, cần tiếp tục hướng dẫn khuyến khích và tạo điều kiện tối đa cho người dân và các tổ chức kinh tế vay vốn tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 41 của Chính phủ; hướng dẫn nông dân vay vốn nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, thực hiện tốt các cơ chế tín dụng có liên quan. 3. KẾT LUẬN Trên cơ sở những khó khăn, rào cản đã phân tích trên, bài viết bước đầu đề xuất bốn giải pháp cấp thiết trước mắt, cần thực hiện nhịp nhàng đồng bộ khi triển khai xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên. Ngoài ra, Đảng và Chính phủ cần có chiến lược lâu dài, ưu tiên quy hoạch phát triển vùng, đa dạng hoá các nguồn lực, đẩy mạnh chính sách thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này. Nếu thực hiện tốt những nội dung trọng tâm này, Chương trình xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn Tây Nguyên chắc chắn sẽ có nhiều chuyển biến nhanh và vững chắc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Đan (2016), "Mùa sưu thuế hãi hùng", Cựu ĐBQH nói đó là "cường hào ác bá", 20160807100301965.htm, cập nhật ngày 7 tháng 8. 2. Quang Huy, Đỗ Tưởng (2016), "Tây Nguyên: Năm 2016 giảm tỷ lệ hộ nghèo bền vững hơn 3%", −.aspx, cập nhật ngày 11 tháng 01. 3. Đỗ Quang Hưng (2011), "Một số vấn đề về Tin Lành ở Tây Nguyên", Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 2, tr.3 − 12. 4. Châu Thị Minh Long (2016), "Hiện trạng cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế và những ảnh hưởng đến xây dựng nông thôn mới tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đăk Lăk", xay-dung-nong-thon-moi-tai-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-tai-cho-tinh-daklak/, cập nhật ngày 28 tháng 4. 5. Nguyễn Văn Nam (2006), "Chính sách dân tộc của Đảng đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, thực trạng và giải pháp", details&mid=4829, cập nhật ngày 8 tháng 9. 152 TRNG I HC TH H NI 6. Lý Oanh (2016), "Kết quả xây dựng nông thôn mới cả nước trong giai đoạn 1 (2010 − 2015) và những mục tiêu cho giai đoạn 2 (2016 − 2020)", web/guest/nong-thon-moi/-/brvt/extAssetPublisher/content/3723571/ket-qua-xay-dung-nong- thon-moi-ca-nuoc-trong-giai-doan-1-2010-2015-va-nhung-muc-tieu-cho-giai-doan-2-2016- 2020, cập nhật ngày 12 tháng 4. 7. Bá Thăng (2012), "Xây dựng nông thôn mới" ở Tây Nguyên: Bài học từ xã điểm Ea ô", https://daklak.gov.vn/-/8223372036863829848, cập nhật ngày 17 tháng 9. 8. Tổng cục Thống kê, "Diện tích, dân số và mật độ dân số phân theo địa phương chia theo địa phương, năm và chỉ tiêu qua các năm 2011 − 2014", dan-so-va-mat-do-dan-so.html, truy cập tháng 7 năm 2016. SOME DIFFICULTIES AFFECTED THE PROGRAM ON NEW RURAL CONSTRUCTION IN CENTRAL HIGHLANDS AND OVERCOMING DIRECTION Abstract: After 5 years of implementation, the program on New Rural Construction in the Central Highlands has achieved many positive results, thereby gradually changing the face of economy and society in rural areas. However, the gains are modest comparing to national averages. The article points out and analyzes the difficulties which have been hindering the implementation of the new rural criteria in the area. Basing it, the article proposes some solutions to overcome difficulties and promotes new rural construction contributing to improve people’s living. Keywords: new rural, new rural in Central Highlands, Central Highlands.
File đính kèm:
- mot_so_kho_khan_anh_huong_den_chuong_trinh_xau_dung_nong_tho.pdf