Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Trong những năm vừa qua, đầu tư từ ngân sách nhà nước luôn là một chủ đề dành được nhiều

sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và nhà nghiên cứu. Đầu tư từ ngân sách nhà nước

được cho là có hiệu quả thấp và không ổn định do những đặc điểm cố hữu gắn liền với khu vực

nhà nước. Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế thị trường, tính bền vững của đầu tư từ ngân

sách càng được chú ý hơn. Khoản đầu tư này vừa phải đáp ứng được những mục tiêu mà nhà

nước đề ra, vừa phải đảm bảo tính hiệu quả, vừa phải linh hoạt trước những thách thức mới. Kết

quả phân tích cho thấy hiệu quả của đầu tư từ ngân sách còn thấp, tính bền vững và lan toả còn

yếu. Các giải pháp cần tập trung vào cải thiện hiệu lực quản lý nhà nước của cơ quan chủ quản,

công tác thanh tra và lập kế hoạch về vốn.

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 9

Trang 9

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang xuanhieu 2880
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Một số hàm ý chính sách nhằm đảm bảo tính bền vững của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong bối cảnh mới của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hất là cán bộ chiến lược và cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, Nghị quyết 
số 19 hàng năm (kể từ 2016) đã được ban hành nhằm đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm cải thiện 
môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia hướng đến năm 2020 và đã đạt được những 
kết quả tích cực. Việc tinh chỉnh bộ máy cũng cần tiếp tục đẩy mạnh để giảm các khoản chi thường 
xuyên và dành nguồn lực cho những nhu cầu khác thiết yếu và hiệu quả hơn.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ cần phải từng bước được hình 
thành đồng bộ hơn, vận hành cơ bản thông suốt và bước đầu có sự gắn kết với thị trường khu 
vực và quốc tế. Thị trường vốnphát triển ngày càng mạnh mẽ, tạo thành một kênh huy động vốn 
quan trọng cho nền kinh tế. Cùng với đó, thị trường bất động sản cũng cầnphát triển đa dạng về 
loại hình, chất lượng sản phẩm từng bước được nâng cao; Thị trường khoa học, công nghệ bước 
đầu phát huy hiệu quả; Các thiết chế của thị trường lao động cần được tiếp tục hoàn thiện thúc 
đẩy dịch chuyển lao động giữa các ngành, khu vực của nền kinh tế.
Hai là, quản trị Nhà nước cần từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu cơ cấu lại 
đầu tư từ ngân sách trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội 
nhập quốc tế.
Vai trò, phương thức quản trị Nhà nước cần có những đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị 
trường. Nhà nước cần tập trung hơn vào bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; hoàn thiện hệ thống luật 
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
338
pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với nguyên tắc thị trường, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tạo 
lập và không ngừng cải thiện môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người 
dân và doanh nghiệp; giảm thiểu sự can thiệp hành chính trực tiếp vào công việc kinh doanh của 
doanh nghiệp. Quản lý tài chính công được đổi mới và từng bước hoàn thiện. Công tác cải cách 
hành chính đã được nỗ lực triển khai và đạt kết quả tích cực. Ứng dụng công nghệ thông tin trong 
quản lý nhà nước từng bước được tăng cường. Sự nhất quán về chủ trương, đường lối đổi mới 
và phát triển kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị, bảo đảm an toàn, trật tự xã hội góp phần quan 
trọng tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Cần phải tôn trọng quy luật khách quan, coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để 
đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương của 
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực tiễn, 
coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi 
mới. Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện dường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước 
phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung 
các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói 
đi đôi với làm; phải nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan 
của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp 
với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ 
phận cấu thành của thể chế kinh tế. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ 
và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Xây 
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến 
lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững; đổi mới mô hình 
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh 
tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. 
Ba là, về thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
Cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng lãng phí, thất 
thoát, tiêu cực trong đầu tư công, chất lượng công trình thấp chưa được giải quyết triệt để. Chất 
lượng thể chế quản lý đầu tư công còn thấp so với mức trung bình của các nước ASEAN-4, nhất 
là về công tác thẩm định, lựa chọn dự án và giám sát thực hiện đầu tư. Công tác quản lý tài chính, 
tài sản công, đất đai ở một số cơ quan, đơn vị còn kém hiệu quả. Công tác cổ phần hóa, thoái 
vốn tại doanh nghiệp nhà nước còn chậm, chỉ mới tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng 
doanh nghiệp, hiệu quả quản trị doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu; thiếu chiến lược phát triển doanh 
nghiệp; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với vị 
thế, nguồn lực đang nắm giữ. Số lượng doanh nghiệp tư nhân còn ít, quy mô chủ yếu là doanh 
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trình độ quản trị và công nghệ lạc hậu; khả năng cạnh tranh và hiệu quả 
hoạt động thấp; mức độ sẵn sàng cho hội nhập và liên kết với khu vực đầu tư nước ngoài còn hạn 
chế. Đội ngũ doanh nhân phát triển chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Tổ chức kinh tế tập 
thể, hợp tác xã phần lớn có quy mô nhỏ, năng lực nội tại còn yếu. Do vậy cần hoàn thiện nền tài 
chính quốc gia; cơ cấu lại, tăng cường giám sát và điều tiết thị trường tài chính.
Các trọng tâm cơ cấu lại về đầu tư, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước cần được 
tập trung thực hiện để đạt kết quả tích cực hơn. Chuyển căn bản từ kế hoạch đầu tư công 
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
339
hằng năm sang kế hoạch đầu tư công trung hạn gắn với kế hoạch hằng năm; lồng ghép, huy động 
các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Phân bổ vốn đầu tư được gắn 
với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; vốn đầu tư nhà nước tập trung nhiều hơn vào các công trình 
quan trọng, thiết yếu để đẩy nhanh tiến độ, đi vào khai thác. Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước trong 
tổng đầu tư giảm từ 38,1% năm 2010 xuống 33,7% năm 2020 (mục tiêu là 31 - 34%). Tính chung 
giai đoạn 2016 - 2020, tổng số dự án đầu tư công trung hạn đã giảm một nửa, chỉ còn 9.620 dự 
án (không bao gồm các dự án thuộc các chương trình, mục tiêu quốc gia). Số vốn bố trí trung 
bình cho một dự án tăng cao. Kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công được tăng cường, từng bước 
ngăn chặn tình trạng phê duyệt dự án vượt quá khả năng cân đối vốn, đầu tư dàn trải, hạn chế nợ 
đọng xây dựng cơ bản, góp phần chống thất thoát, lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực tài 
chính quốc gia.
Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn, 
bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống. Khung khổ pháp lý về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng từng bước 
được hoàn thiện, tiệm cận với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tiễn của 
Việt Nam. Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai quyết liệt 
và đạt kết quả tích cực; số lượng các tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ, hoạt động yếu kém giảm 
dần; tỷ lệ nợ xấu giảm từ 17,2% năm 2012 xuống dưới 3% đến cuối năm 2020.
Nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh, tính minh bạch và áp dụng các 
chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt trong quản trị và hoạt động của các tổ chức tín dụng, bảo đảm 
phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm 
nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, bội chi 
ngân sách nhà nước đến năm 2030 khoảng 3% GDP; đồng thời phải đặt trong tổng thể cơ cấu lại 
nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các 
nguồn lực tài chính thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà 
nước, tăng tỷ lệ thu nội địa, tăng tích luỹ từ ngân sách nhà nước cho chi đầu tư phát triển; tăng 
sức chống chịu, bảo đảm an toàn, an ninh tài chính quốc gia. Cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả 
sử dụng nợ công, hạn chế tối đa cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay mới. Đối với doanh 
nghiệp nhà nước cần đổi mới cách thức thực hiện cố phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh 
nghiệp nhà nước, nhất là các biện pháp liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản 
cố định, thương hiệu và giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hóa. Hoàn tất việc sắp xếp 
lại khối doanh nghiệp nhà nước. Tiền thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tập trung đầu 
tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng, quốc gia, địa phương, bổ sung vốn điều 
lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh, nhất là nhân lực chất lượng cao, gắn kết 
chặt chẽ hơn với nhu cầu thị trường; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ đạt kết quả 
tích cực.
Quy mô nguồn nhân lực được mở rộng, lực lượng lao động tăng từ 50,4 triệu người năm 2010 
lên khoảng 54,6 triệu người vào năm 2020 với cơ cấu hợp lý hơn. Chất lượng nhân lực có sự cải 
thiện đáng kể và phù hợp hơn với nhu cầu thị trường. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 
2010 lên 64,5% năm 2020. Trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 
14,6% năm 2010 lên 24,1% vào năm 2020. Nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất 
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
340
lượng, trong đó một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ khu vực và quốc tế như công nghệ thông tin, 
y tế, công nghiệp xây dựng, cơ khí...
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo được triển khai tích cực theo hướng 
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng và triển khai hệ 
thống giáo dục quốc dân và khung trình độ quốc gia mới. Mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp 
tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Quan tâm phát triển giáo dục vùng 
đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm công bằng hơn trong tiếp cận giáo 
dục. Chương trình, sách giáo khoa, nội dung, phương pháp giáo dục, thi cử, kiểm định chất lượng 
đào tạo được đổi mới phù hợp hơn và giảm áp lực, chi phí xã hội. Bước đầu đã chú trọng dạy và 
học đạo đức, kỹ năng sống, ngoại ngữ, tin học, giáo dục thể chất. Từng bước thực hiện cơ chế 
tự chủ đối với cơ sở giáo dục - đào tạo. Chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, nghề 
nghiệp được nâng lên. Trong thời gian dịch bệnh COVID-19, ngành giáo dục - đào tạo đã bước 
đầu tiếp cận dạy và học qua Internet, truyền hình với nhiều hình thức khác nhau; Phát triển nguồn 
nhân lực gắn với khoa học, công nghệ đạt được kết quả tích cực. Nhiều cơ sở giáo dục - đào tạo 
có cơ chế khuyến khích sinh viên, học viên nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là 
thông qua quỹ phát triển khoa học, công nghệ. Công tác đào tạo nhân lực đã từng bước thay đổi 
theo hướng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, người sử dụng lao động, thị trường. Nhiều cơ sở 
giáo dục đại học, nghề nghiệp hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để đào tạo theo đặt hàng. Nhiều 
doanh nghiệp mở các cơ sở đào tạo nghề nghiệp phục vụ trực tiếp cho doanh nghiệp và cung ứng 
cho thị trường. Tuy nhiên, dù đạt được nhiều kết quả nhưng chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa 
xứng với tiềm năng của phát triển kinh tế. Trình độ khoa học, công nghệ quốc gia nhìn chung 
còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn hạn chế. Hiệu quả 
nghiên cứu khoa học, công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa cao. Năng lực nghiên cứu 
ứng dụng của các viện nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn. Việc chuyển giao các kết quả 
nghiên cứu khoa học, đặc biệt là các kết quả phát triển công nghệ từ nguồn vốn hỗ trợ của Nhà 
nước cho doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân 
lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 
tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội 
ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh 
nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người; Đổi mới và nâng cao 
chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương 
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp 
luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam; phát 
triển mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy 
phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số và phát triển mạnh thị trường khoa học, 
công nghệ gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học, công nghệ
Năm là, cần tập trung đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, giải 
quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí từ Trung ương đến địa phương. Tăng 
cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và chấn chỉnh, xử lý nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng 
lớn tiền và tài sản về cho Nhà nước. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được 
quan tâm hơn, xử lý kịp thời nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài, vượt cấp và hạn chế phát sinh mới. 
Đã tập trung chỉ đạo xử lý nghiêm và công khai kết quả xử lý nhiều vụ việc tham nhũng, góp 
phần củng cố niềm tin trong nhân dân.
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
341
Sáu là, cải cách thủ tục hành chính để đạt được những chuyển biến tích cực. Các cấp, các 
ngành cần tập trung cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm thống nhất, đồng bộ, đơn giản, minh 
bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, danh mục 
sản phẩm hàng hóa kiểm tra chuyên ngành cần được cắt giảm, đơn giản hóa. Quy định về thủ tục 
hành chính cần được kiểm soát chặt chẽ ngay từ khi xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp 
luật, cần tích cực xây dựng Chính phủ, chính quyền điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến 
được đẩy nhanh, tăng cường họp, làm việc trực tuyến, xử lý hồ sơ công việc trên môi trường điện 
tử; cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa quốc gia, một cửa ASEAN tiếp tục được duy trì, 
mở rộng, cải thiện về chặt lượng, hiệu quả hoạt động.
(Bài viết nằm trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài Độc lập cấp Quốc gia mã số ĐT 
ĐL.XH-04/19)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo Chỉ số Tài sản trí tuệ Quốc tế (World Intellectual Property Indicators) các năm 
2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020.
2. Báo cáo số 5984/BC-BKHĐT ngày 29/8/2018 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo đánh giá 
giữa kỳ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
3. Báo cáo số 471/BC-CP ngày 12/10/2018 của Chính phủ về đánh giá giữa kỳ thực hiện kế 
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
4. Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây 
dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030. 
5. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê qua các năm từ 2001 - 2020.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_ham_y_chinh_sach_nham_dam_bao_tinh_ben_vung_cua_dau_t.pdf