Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay, mối quan hệ giữa triết học và các khoa học
trở thành vấn đề hết sức quan trọng, chứa đựng nội dung phong phú và sâu sắc. Triết học đóng vai trò
thế giới quan và phương pháp luận phổ biến cho các khoa học, là cơ sở lý luận để đánh giá thành tựu
của các khoa học, vạch ra phương hướng phát triển và phương pháp nghiên cứu của các khoa học. Về
phần mình, các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học các thành tựu để từ đó triết học khái quát thành
quan điểm chung nhất, đồng thời các thành tựu ấy còn có giá trị kiểm chứng những kết luận của
triết học.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay
ển đã được nêu lên trong triết học sớm hơn nhiều thế kỷ trước khi nó được chứng minh trong các khoa học cụ thể; thuyết nguyên tử ra đời sớm hơn hàng nghìn năm trước khi nguyên tử được các khoa học phát hiện ra trong thực tế; tư tưởng của V. I. Lênin về tính vô tận, vô hạn trong cấu trúc vật chất và tính đa dạng về chất của nó là cơ sở lý luận phổ biến cho các khoa học xây dựng bức tranh chung về thế giới. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm thay đổi sâu sắc đời sống con người. Con đường duy nhất để khắc phục những giáo điều, khuôn sáo, trì trệ là nắm chắc và vận dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì phép biện chứng duy vật là phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng” (Dẫn theo: Võ Nguyên Giáp (chủ biên), 2003, tr.43). Như vậy, với vai trò thế giới quan và phương pháp luận của mình, triết học đã trở thành công cụ đắc lực cho sự phát triển của các khoa học. 4. Vai trò của các khoa học đối với triết học a. Các khoa học cung cấp dữ liệu cho triết học Trong quá trình phát triển của mình, triết học tự bản thân nó không trực tiếp SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 20 nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cụ thể, mà nó sử dụng các kết quả đã đạt được trong các khoa học khác, trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và bằng tư duy lý luận khái quát hóa thành các luận điểm triết học, hình thành các nguyên lý, phạm trù, quy luật trong hệ thống lý luận của nó. Tất cả những dữ liệu của các khoa học tạo thành “tài liệu thực nghiệm” mà xuất phát từ đó các kết luận triết học được rút ra và quay trở lại phục vụ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Không phải ngẫu nhiên, từ kinh nghiệm nghiên cứu của mình, N. Bohr cho rằng, “vật lý học cần có triết học khái quát” (Lê Hữu Tầng, 2006, tr.22), còn A. Einstein và L. In-phen-đơ thì khẳng định: “Các khái quát hóa triết học cần phải dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có” (Lê Hữu Tầng, 2006, tr.22). Sự khái quát triết học có thể hình thành nên những luận điểm triết học hoàn toàn mới, có thể bổ sung thêm nội dung mới cho những kết luận cũ, và cũng có thể hình thành nên những phạm trù triết học mới bổ sung vào hệ thống triết học của mình. Sự tác động của các khoa học đối với sự phát triển của triết học có thể tạo nên phong cách tư duy triết học mới đáp ứng nội dung của các khoa học và yêu cầu của thực tiễn. Chẳng hạn: Thuyết “Nhật tâm” của N. Copernic (N. Cô-péc-ních) khẳng định trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ, mà chính mặt trời mới là trung tâm của vũ trụ đã giáng một đòn mạnh mẽ vào thế giới quan duy tâm, tôn giáo, thần học ở thời kỳ Phục hưng thế kỷ XV - XVI, mở đầu một thời kỳ mới khoa học tách khỏi tôn giáo và thần học. Thuyết tiến hóa của Darwin (Đác-uyn) cho rằng, các giống loài thực vật, động vật không phải được sáng tạo bởi Thượng đế hay “Đấng siêu nhiên”, mà là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên đã đánh đổ quan điểm duy tâm, thần luận, mở ra một thời đại mới cho triết học và nhận thức khoa học. A. Einstein - một trong những nhà khoa học xuất sắc nhất của thế kỷ XX không ít lần chỉ rõ các khái quát triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Thuyết tương đối của ông - một phát minh vạch thời đại, theo đó, tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với vận động, không gian và thời gian mang ý nghĩa thế giới quan, phương pháp luận khoa học sâu sắc và làm tiền đề cho sự phát triển của triết học duy vật biện chứng và các khoa học từ thế kỷ XX trở đi. Những phát minh vạch thời đại trong khoa học tự nhiên cùng với những biến đổi trong các khoa học lịch sử đã góp phần đưa đến sự cáo chung hình thức cũ của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật siêu hình; nó cần được thay thế bằng hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử – tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó” (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995, tr.409). Nếu trước đây “hệ thống” được coi chỉ là khái niệm của các khoa học cụ thể, phương pháp hệ thống chỉ là phương pháp chung, thì giờ đây - với sự phát triển của khoa học hiện đại, “hệ thống” đã trở thành NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 21 một phạm trù triết học, cặp phạm trù “hệ thống – yếu tố” đã trở thành một trong các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng, phương pháp hệ thống đã trở thành phương pháp phổ biến của nhận thức và thực tiễn. Ảnh hưởng của các khoa học đến sự phát triển của triết học có thể diễn ra theo hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào lập trường thế giới quan, phương pháp luận của từng học thuyết triết học. Nghĩa là, một học thuyết triết học với thế giới quan, phương pháp luận mang tính khoa học sẽ tiếp nhận các thành tựu khoa học theo hướng tích cực; ngược lại, một học thuyết triết học với thế giới quan, phương pháp luận mang tính phản khoa học sẽ tiếp nhận các thành tựu khoa học theo hướng tiêu cực. Chẳng hạn, các thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đã làm bộc lộ những hạn chế của bức tranh cũ về thế giới, tạo nên “cuộc khủng hoảng vật lý học”. Các thành tựu ấy đã bị các nhà triết học duy tâm, kể cả một số nhà khoa học tự nhiên “giỏi về khoa học nhưng kém cỏi về triết học” lợi dụng, hoài nghi về phạm trù “vật chất”, khẳng định “vật chất bị tiêu tan”, cho rằng chủ nghĩa duy vật không còn cơ sở để tồn tại. Chính vì không nắm vững bản chất của tư duy biện chứng nên các nhà tư tưởng ấy đã tìm đến chủ nghĩa hoài nghi rồi cho rằng cần từ bỏ chủ nghĩa duy vật và thay thế bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Nhưng cũng với chính các phát minh khoa học ấy, V. I. Lênin khẳng định rằng, chỉ có nắm vững phép biện chứng duy vật mới có thể thoát ra khỏi “cuộc khủng hoảng vật lý học”. Từ lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, V. I. Lênin đã phân tích một cách sâu sắc các thành tựu của khoa học tự nhiên, phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình, nêu lên một định nghĩa khoa học về vật chất. Trên cơ sở đó, ông đã bảo vệ thành công, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng của C. Mác trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại. Trong sự phát triển của các khoa học hiện đại, cùng với xu hướng xuất hiện các ngành khoa học mới, chuyên sâu, đồng thời còn có xu hướng liên ngành, kết hợp nhiều ngành với nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Tính chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết hợp các ngành truyền thống thành các khoa học mới như lý - hóa, hóa - lý, sinh - hóa, hóa - sinh, sinh - tâm lý, sinh - vật lý, địa - vật lý mà còn là sự xích lại gần nhau giữa các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ với các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Xu hướng liên kết này xuất phát từ nguyên lý tính thống nhất vật chất của thế giới, tính đa dạng, phức tạp của các hình thức vận động của vật chất (thực chất các khoa học là nghiên cứu các hình thức vận động của vật chất). Chính sự liên kết giữa các khoa học với nhau cho phép triết học đưa ra một bức tranh chung nhất về thế giới, khắc phục tính chất phân tán, manh mún của các khoa học chuyên ngành, xác lập cơ sở cho sự hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Ở phương diện này, từ các thành tựu của các khoa học mà triết học thể hiện vai trò “hạt nhân lý luận” kết nối các ngành khoa học với nhau, là trung tâm phương pháp luận khoa học, đem lại khả năng chủ động và tích cực trong nghiên cứu khoa học. Như vậy, từ các thành tựu mà các khoa học đạt được, triết học có nhiệm vụ tổng kết và khái quát thành các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Tất nhiên, trong mỗi khoa học cụ thể đều có sự tổng kết, khái quát các tri thức khoa học SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 22 thành các nguyên lý, quy luật nhất định, nhưng những tổng kết, khái quát ấy được giới hạn trong từng lĩnh vực cụ thể nhất định. Đặc điểm của sự khái quát triết học là mang tính chung nhất, phổ quát nhất về các quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho mọi khoa học. b. Các khoa học giúp kiểm chứng các luận điểm triết học Có thể xuất hiện câu hỏi: Liệu tri thức triết học có đáng tin cậy không khi nó đóng vai trò là cái định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người? Nếu có thì cơ sở của sự tin cậy đó là gì? Một điều rõ ràng rằng, triết học cũng như các khoa học khác đều lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Vì vậy, một mặt để xem xét tính chân lý của các tri thức triết học cần phải lấy thực tiễn để kiểm nghiệm, mặt khác chính vì các luận điểm triết học là kết quả của sự khái quát những thành tựu của các khoa học nên bản thân chúng cũng là cái dữ liệu để kiểm chứng các kết luận triết học. Hay nói cách khác, một luận điểm triết học là đáng tin cậy khi nó được thực tiễn kiểm nghiệm hoặc được các khoa học khác chứng minh, được các tài liệu thực nghiệm kiểm chứng. Lịch sử khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX chứng tỏ rằng, thông qua các thành tựu của nó, triết học đã khái quát lên nguyên lý tính đa dạng về chất của thế giới vật chất, cũng như những hình thức tương tác giữa chúng. V. I. Lênin viết: “Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử; tự nhiên là vô tận, nhưng nó lại tồn tại một cách vô tận” (V. I. Lênin, 1980, tập 18, tr.323). Mặt khác, sự phát triển của khoa học hiện đại không chỉ làm sáng tỏ kết cấu của thế giới vật chất và sự phản ánh chúng vào trong bộ óc con người, mà còn xác nhận, kiểm chứng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới, xác nhận tư tưởng của V. I. Lênin về tính vô cùng tận của thế giới vật chất. Nhiều thuộc tính đã biết của thế giới chỉ còn mang tính chất tương đối khi người ta hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới, bởi vì, “nếu như mức độ sâu sắc đó hôm qua chưa vượt quá nguyên tử, hôm nay chưa vượt quá điện tử và trường, thì chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh tính chất tạm thời, tương đối, gần đúng của tất cả những cái mốc đó của sự nhận thức giới tự nhiên bởi khoa học ngày càng tiến triển của con người” (V. I. Lênin, 1980, tập 18, tr.323). Với logic như vậy, vật lý học hiện đại đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc của nguyên tử được cấu tạo từ các hạt cơ bản như thế nào, chỉ ra chức năng, vai trò của các hạt cơ bản ấy. Các hạt này được chia làm hai nhóm lớn: nhóm hạt Fermion tạo ra vật chất như các quarks trong hạt nhân nguyên tử, các electron ở vỏ nguyên tử, và nhóm các hạt Boson tạo ra trường lực như các Gluon (hạt truyền lực mạnh), W & Z boson (hạt truyền lực yếu), Photon (hạt truyền lực điện từ) và Graviton - hạt truyền lực hấp dẫn.v.v. (Xem: Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019, tr.270). Ở phương diện này, những thành tựu mới của khoa học hiện đại không những không phủ định, mà càng khẳng định tính khoa học, tính chân lý của triết học Mác - Lênin về phương thức tồn tại và các thuộc tính của vật chất, về tính vô cùng tận, muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất. Đó là cơ sở khoa học vững chắc cho sự phát triển của triết học và các khoa học hiện nay. 5. Kết luận Triết học và các khoa học có mối quan hệ biện chứng, mật thiết, thống nhất với NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 23 nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Triết học đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến định hướng cho sự phát triển của các khoa học cụ thể. Nhờ có sự định hướng của triết học mà các khoa học có phương hướng, mục đích, động cơ phát triển rõ ràng, tránh những trở ngại về khách quan cũng như chủ quan trên con đường phát triển. Các khoa học cụ thể cung cấp những thành tựu để từ đó triết học khái quát thành những quan điểm triết học, đồng thời những thành tựu này có giá trị kiểm chứng các kết luận của triết học. Các khoa học cụ thể tồn tại và phát triển không tách rời triết học và ngược lại, triết học cần có các thành tựu của các khoa học để làm giàu kho tàng lý luận của mình, và quan trọng hơn chỉ có như vậy, khoa học và triết học mới đáp ứng được các yêu cầu phát triển của đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần tránh cả hai thái cực: hoặc là xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, mù quáng, tùy tiện, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn; hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể, hậu quả là sẽ khó tránh khỏi bị thất bại. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2015). Giáo trình Triết học (Dùng cho khối không chuyên ngành Triết học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên, công nghệ). Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Dự thảo Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dành cho khối chuyên lý luận chính trị). Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn, Tô Duy Hợp, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Duy Thông (chủ biên). (1977). Vai trò của phương pháp luận triết học Mác-Lênin đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. Võ Nguyên Giáp (chủ biên). (2003). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. B.M. Ke-đrốp. (1976). Khái lược về lịch sử và lý luận phát triển khoa học. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. V. I. Lênin. (1980). V. I. Lênin toàn tập, tập 18. Mátxcơva: NXB Tiến bộ. C. Mác và Ph. Ăng-ghen. (1995). C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. C. Mác và Ph. Ăng-ghen. (1995). C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. Nguyễn Duy Quý. (1998). Nhận thức thế giới vi mô. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. Lê Hữu Tầng. (2006). “Triết học có thể đóng vai trò gì trong cuộc sống?”. Tạp chí Triết học, số 6 (181). Hà Nội. Ngày nhận bài: 27/02/2020 Biên tập xong: 15/4/2020 Duyệt đăng: 20/4/2020
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_triet_hoc_va_cac_khoa_hoc_duoi_anh_sang_cua.pdf