Mô hình thực hành kỹ năng ngôn ngữ và nghề nghiệp cho sinh viên chuyên ngành Du lịch, khoa Tiếng Pháp, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế
Tóm tắt: Sinh viên học ngoại ngữ chuyên ngành du lịch rất cần được thực hành kỹ năng
ngôn ngữ và nghề nghiệp. Do đó, xây dựng mô hình "Tour du lịch đi bộ miễn phí cho khách
Pháp ngữ" hứa hẹn sẽ là mô hình thực hành rất thiết thực dành cho họ. Cụ thể, họ sẽ được
nâng cao năng lực ngôn ngữ và trau dồi kỹ năng nghề nghiệp thông qua việc được đào tạo,
tập huấn và thực hành những kỹ năng như thiết kế tour, hướng dẫn du lịch, quảng bá sản
phẩm và quản trị trong một nhóm được chọn lọc. Sau đó, tour đã được thiết kế, quảng bá,
thực hành hướng dẫn và được kiểm tra, đánh giá, nhận xét bởi một du khách Pháp ngữ. Mô
hình sẽ được điều chỉnh phù hợp và sẽ được áp dụng cho sinh viên các khoá tiếp theo.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình thực hành kỹ năng ngôn ngữ và nghề nghiệp cho sinh viên chuyên ngành Du lịch, khoa Tiếng Pháp, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế
và kỹ năng nghề nghiệp dành cho sinh viên hệ tiếng Pháp chuyên ngành Du lịch của Khoa Tiếng Pháp – Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và Khoa Tiếng Pháp – Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế do hai nhóm giảng viên của hai khoa trên phối hợp thực hiện. Theo dự kiến, dự án sẽ được kéo dài từ 05/09/2017 – 05/09/2018 và được CREFAP (Trung Tâm Tiếng Pháp Châu Á – Thái Bình Dương) hỗ trợ theo những thoả thuận ban đầu. Hai nhóm sinh viên tiến hành công việc theo kế hoạch chung nhưng lại tiến hành độc lập theo điều kiện tại mỗi địa phương. Trong khuôn khổ của báo cáo này, tôi chỉ trình bày phần việc liên quan đến công việc của dự án tại Huế. Dự án tại Huế do bản thân tác giả cùng cô Công Huyền Tôn Nữ Ý Nhiệm phụ trách. Đầu tiên, chúng tôi thông báo về dự án cho các bạn sinh viên năm vừa mới học xong năm thứ 2 và thứ 3, nghĩa là về mặt lý thuyết đã được trang bị khá đầy đủ về khả năng ngôn ngữ. Sau đó, những sinh viên muốn tham gia dự án trải qua hai phần kiểm tra: phần kiểm tra ngôn ngữ: 04 kỹ năng trong vòng 90 phút, tương đương trình độ DELF B1 tiếng Pháp và phần phỏng vấn kiến thức, kỹ năng nghề về thiết kế tour, hướng dẫn du lịch, quảng bá sản phẩm, điều hành tour theo nhu cầu của ứng viên trong vòng 15 phút bằng tiếng Việt. Sau khi kiểm tra, chúng tôi đã chọn được 13 sinh viên nhưng sau đó một sinh viên xin nghỉ nên danh sách cuối cùng còn 12 người. Nhóm này sau đó đã được phân nhỏ theo mong muốn thực hành kỹ năng nghề ban đầu của họ. Tiếp đó, chương trình tham quan đi bộ được sinh viên thiết kế, được giáo viên phụ trách góp ý, chỉnh sửa. Chương trình tham quan sau đó được kiểm tra thực địa bởi giáo viên, các sinh viên khác nhau thực hành hướng dẫn thử tại các điểm khác nhau có trong chương trình. Tiếp theo, 6 T p chí Khoa h c Ngôn ng và Văn hóaạ ọ ữ ISSN 25252674 T p 3, S 1, 2019ậ ố các kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng hướng dẫn du lịch, kiến thức của sinh viên lại được chỉnh sửa thêm lần nữa. Sau đó, chúng tôi đã mời một người bạn Pháp đóng vai khách du lịch để trải nghiệm và góp ý cho chương trình tour. Sau khi được thử nghiệm, vì lí do khách quan cả từ phía giáo viên hướng dẫn lẫn sinh viên tham gia, dự án phải tạm dừng ở khâu chuẩn bị, nghĩa là chúng tôi chưa thực sự giới thiệu, quảng bá mô hình FFWT này với du khách Pháp ngữ. Chúng tôi chỉ mới tạo ra một trang Facebook cho dự án. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi đã tiến hành điều tra bằng bảng hỏi với du khách người Pháp đã tham gia kiểm tra tour cũng như với 12 sinh viên đã tham gia dự án. Bảng hỏi cho du khách người Pháp được thiết kế giống như phiếu đánh giá dành cho khách du lịch sau khi kết thúc tour. Ngoài phần thông tin cá nhân, chúng tôi tập trung hỏi về chất lượng của chương trình tham quan, về hướng dẫn viên, về hứng thú của khách với chuyến tham quan. Các câu hỏi này với các tiểu mục được đánh giá theo thang độ Likert 5 mức độ: xuất sắc, rất tốt, tốt, trung bình và chưa đạt. Ở phần cuối phiếu đánh giá, du khách cho ý kiến về điều làm ông ấy thích nhất và ít thích nhất trong chương trình tham quan. Đối với 12 sinh viên đã tham gia mô hình, chúng tôi đã gửi thư điện tử nhờ họ điền phiếu điều tra trên Google Forms. Phiếu điều tra gồm 2 phần: phần thông tin cá nhân (giới tính và nghề nghiệp hiện tại) và phần câu hỏi liên quan đến dự án FFWT. Phần thứ hai điều tra nhận định của người trả lời về những kỹ năng ngôn ngữ và kỹ năng nghề du lịch đã được trau dồi. Nhiều loại câu hỏi khác nhau đã được sử dụng trong phiếu điều tra này, một số câu hỏi có hơn một lựa chọn. Do mô hình của chúng tôi áp dụng cho sinh viên chuyên ngành du lịch của Khoa Tiếng Pháp - Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế nên bản điều tra của chúng tôi chỉ tập trung phân chia các kỹ năng cần điều tra thành ba nhóm: kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng nghề nghiệp và các kỹ năng, yếu tố khác. Kỹ năng ngôn ngữ bao gồm bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Kỹ năng nghề nghiệp liên quan đến các nghề mà sinh viên đã đăng ký được rèn luyện từ khi mới tham gia dự án: hướng dẫn du lịch, thiết kế tour, quảng bá tour, điều hành tour. Các yếu tố khác gồm kiến thức văn hoá lịch sử, sự tự tin và khả năng giải quyết vấn đề. 4. Kết quả nghiên cứu Đối với du khách người Pháp, về chất lượng của chương trình tham quan gồm 04 mục, ông đánh giá rất tốt nhịp độ tham quan và an toàn giao thông còn tính độc đáo và sự hợp lý của các điểm tham quan được đánh giá tốt. Về phần hướng dẫn viên, trong 4 mục, ông cho rằng họ xuất sắc trong việc tổ chức và có thái độ thân thiện. Trình độ tiếng Pháp chỉ được đánh giá ở mức tốt còn kiến thức về điểm tham quan thì mới ở mức trung bình. Liên quan đến hứng thú của khách, khách đánh giá phong cảnh thiên nhiên rất đẹp, người dân và phong tục ở mức tốt còn lịch sử và văn hoá chỉ ở mức trung bình. Còn mục ẩm thực, trong chương trình dự kiến sẽ mời khách thưởng thức ẩm thực chay nhưng trong buổi khảo sát, vị khách này bận việc nên về sớm, không thưởng thức được nên ông bỏ trống mục này. Điều khiến khách thích thú nhất trong chương trình tham quan này là được đi bộ, tránh xa những con đường đông đúc và được nghe những lời giải thích, những giai thoại. Điều ông ít thích nhất là không hiểu được những tên của 7 Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 25252674 Vol 3, No 1, 2019 các vị vua, các anh hùng được kể đến. Ông cũng mong muốn được thưởng thức một vài loài trái cây được bán ở chợ, xa lạ với du khách nước ngoài. Về phần 12 sinh viên đã tham gia dự án, 50% là nữ, 50% là nam. Hiện tại, theo kết quả khảo sát, có 04 người đang làm hướng dẫn viên du lịch (chiếm 1/3 số người trả lời), 01 người làm lễ tân khách sạn, 01 người bán hàng có sử dụng tiếng Pháp, 01 người làm trong lĩnh vực du lịch có sử dụng tiếng Pháp, 01 người làm marketing, 01 người làm trợ lý và 02 người đang chưa có việc làm. Như vậy, tổng cộng có 7/12 người đang sử dụng tiếng Pháp trong công việc, 6/12 người đang làm trong lĩnh vực du lịch. Đặc biệt, cả 04 sinh viên đang làm hướng dẫn viên du lịch đều đã đăng ký thực hành kỹ năng hướng dẫn khi tham gia mô hình. Cụ thể, về kỹ năng nghề nghiệp, có đến 10/12 sinh viên (chiếm 83,3%) muốn được thực hành nghề hướng dẫn du lịch. Các nghề tiếp theo mà người trả lời muốn thực hành lần lượt là thiết kế tour (9/12 người, 75%), marketing (7/12 người, 58,3%) và điều hành tour (4/12 người, 33,3%). Về kỹ năng ngôn ngữ, 11/12 sinh viên (chiếm 91,7%) muốn được thực hành kỹ năng Nói. Các kỹ năng khác lần lượt là Nghe (10/12 người, 83,3%), Đọc và Viết cùng được chọn bởi 2/12 người (chiếm 16,7%). Như vậy, những người tham gia mô hình này mong muốn được thực hành nhất là hai kỹ năng Nói và Nghe. Kết quả này cũng phù hợp với kỹ năng nghề mà họ đã chọn: nghề hướng dẫn du lịch tập trung nhiều vào việc rèn luyện kỹ năng Nói và Nghe. Khi được hỏi về mức độ hài lòng với các kỹ năng đã được thực hành, nhìn chung sinh viên hài lòng (xem bảng 2). Về kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng Nói với tỉ lệ 91,7% người đăng ký thực hành từ đầu thì 41,7% hài lòng, 25% rất hài lòng và 0,83% hoàn toàn hài lòng. Với kỹ năng Nghe, 83,3% người đăng ký thực hành từ đầu thì có 50% hài lòng, 16,7% rất hài lòng và 0,83% hoàn toàn hài lòng. Về kỹ năng Đọc, 59,13% hài lòng và rất hài lòng. Về kỹ năng Viết, 66,7% người trả lời hài lòng, 33,4% ít hoặc hoàn toàn không hài lòng. Điều này cũng dễ hiểu vì hai kỹ năng sau ít người đăng ký và đặc thù của mô hình thực hành cũng tập trung vào kỹ năng Nghe - Nói nhiều hơn. Còn với kỹ năng nghề, những nghề sinh viên mong muốn thực hiện từ khi tham gia đều đem lại cho họ sự hài lòng. Cụ thể, phần thực hành nghề hướng dẫn viên nhận 50% sự hài lòng, 16,7% rất hài lòng và 16,7% hoàn toàn hài lòng. Phần thực hành nghề thiết kế tour cũng nhận được 67,53% sự hài lòng. Hai phần thực hành nghề marketing và điều hành tour ít đem lại sự hài lòng hơn (lần lượt là 41,7% và 53,8%) do mô hình mới chỉ dừng lại ở khâu chuẩn bị chương trình tham quan, chưa hoạt động thực tế nên chưa được quảng bá và cũng chưa cần có sự điều hành. Ngoài ra, còn có sự không nhất quán trong câu trả lời của người được điều tra. Ví dụ, người trả lời số 10, đăng ký thực hành nghề hướng dẫn viên, thiết kế tour, marketing lại đưa nhận xét về mức độ hài lòng đối với nghề điều hành tour; nên kết quả là chọn "hoàn toàn không hài lòng". Ngoài kỹ năng ngôn ngữ và nghề nghiệp, 100% người được hỏi trả lời đã học được các yếu tố, kỹ năng khác, bao gồm: kiến thức văn hoá lịch sử, sự tự tin và khả năng giải quyết vấn đề. Trong thực tế, trước khi tiến hành kiểm tra chương trình tour, chúng tôi đã yêu cầu các bạn sinh viên phải tự trang bị cho mình thêm kiến thức văn hoá lịch sử địa phương. Sau đó, trong quá trình kiểm tra tour, bản thân tác giả cũng là một hướng dẫn viên du lịch, đã đóng vai là du khách hiếu kỳ, đặt nhiều câu hỏi và đưa ra các tình huống giả định để các bạn sinh viên trả lời, 8 T p chí Khoa h c Ngôn ng và Văn hóaạ ọ ữ ISSN 25252674 T p 3, S 1, 2019ậ ố giải quyết. Sau đó, chúng tôi còn yêu cầu các bạn sinh viên bổ sung những điều đã tiếp thu được trong chuyến kiểm tra tour vào một tài liệu tham khảo chung dành cho cả nhóm. Chính vì vậy, toàn bộ sinh viên tham gia đều đã có thêm kiến thức, đều cảm thấy tự tin khi hướng dẫn và có khả năng giải quyết một số vấn đề có thể xảy ra khi hành nghề. Bảng 2. Mức độ hài lòng đối với các kỹ năng đã được thực hành Kỹ năng Hoàn toàn không hài lòng (%) Ít hài lòng (%) Hài lòng (%) Rất hài lòng (%) Hoàn toàn hài lòng (%) Kỹ năng ngôn ngữ Nghe 0,83 16,7 50,0 16,7 0,83 Nói 25,0 41,7 25,0 0,83 Đọc 0,83 25,0 58,3 0,83 Viết 16,7 16,7 66,7 Kỹ năng nghề nghiệp Hướng dẫn viên 16,7 50,0 16,7 16,7 Thiết kế tour 25,0 41,7 0,83 25,0 Điều hành tour 0,83 58,3 16,7 16,7 Marketing 41,7 41,7 0,83 0,83 5. Thảo luận và đề xuất Kết quả nghiên cứu cho thấy cả sinh viên tham gia dự án và du khách trải nghiệm chương trình tham quan đều hài lòng. Sinh viên thụ hưởng mô hình FFWT thì được thực hành kỹ năng ngôn ngữ và kỹ năng nghề. Họ thấy được những mặt yếu, mặt mạnh của mình để khắc phục, cải thiện hoặc phát huy như đánh giá của du khách. Họ tiếp thu được một số kiến thức, kỹ năng mà có thể trường học chưa trang bị đầy đủ. Họ cũng đã có cơ hội tiếp xúc thực tế với du khách nên cũng hứng khởi hơn, càng tự tin hơn khi giao tiếp. Tuy nhiên, du khách cũng nhận xét rằng hiểu biết về văn hoá lịch sử của sinh viên còn hạn chế, chương trình tham quan còn chưa giới thiệu đậm nét các nét văn hoá đặc trưng của địa phương. Chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn thiện chương trình và trang bị thêm các kiến thức văn hoá lịch sử cho sinh viên. 6. Kết luận Kết quả khảo sát đã chỉ ra những ưu điểm của mô hình FFWT đối với sinh viên chuyên ngành du lịch, Khoa Tiếng Pháp, Trường Đại học Ngoại Ngữ, Đại Học Huế trong việc thực hành kỹ năng ngôn ngữ và kỹ năng nghề nghiệp. Sinh viên sau khi ra trường, cùng với những kỹ năng được nhà trường trang bị, đã được cung cấp thêm hoặc đã cải thiện những kỹ năng chính giúp họ tự tin đi vào môi trường lao động chuyên nghiệp. Nhà trường cũng có thể xem đây như là một mô hình giáo dục bổ trợ cần thiết. Còn sinh viên cũng sẽ trở thành lực lượng bổ sung có chất lượng cho thị trường lao động trong lĩnh vực du lịch ở địa phương. Như vậy, việc áp dụng mô hình du lịch đi bộ miễn phí như một mô hình giáo dục đã là giá trị tăng thêm cho loại hình du lịch này. Về phía du khách, khi trải nghiệm mô hình du lịch đi bộ này, họ có cơ hội khám phá những nét đặc trưng văn hoá địa phương, mà đôi khi họ không có được nếu tham gia vào các 9 Journal of Inquiry into Languages and Cultures ISSN 25252674 Vol 3, No 1, 2019 loại hình du lịch khác. Đối với cộng đồng địa phương, một số thợ thủ công, nhà hàng sẽ tham gia vào dự án, qua đó tăng thêm thu nhập. Loại hình du lịch đi bộ này cũng không gây tác hại cho môi trường. Biểu đồ 1. Các đối tượng thụ hưởng của mô hình FFWT Tóm lại, những thử nghiệm bước đầu với mô hình FFWT đã thành công. Mô hình thực hành này đem lại lợi ích cho nhiều đối tượng thụ hưởng khác nhau (xem hình 1) nên sẽ được chúng tôi đề xuất cải thiện và áp dụng cho sinh viên các năm tiếp theo. Tài liệu tham khảo Åberg, K.G. (2017). Anyone could do that” - Nordic perspectives on competence in tourism. Unpublished doctoral dissertation. Umeå: Umeå University. Công Huyền Tôn Nữ Ý Nhiệm (2016). Stage en entreprise des étudiants de la filière du Tourisme: Défis et perspective. Le cas du departement de français de l’école superieure de langues étrangeres (ESLE) de Hué. Synergies Pays riverains du Mékong, 8, 77-87. Đại học Ngoại Ngữ, Đại Học Huế (2016). Chương trình đào tạo đại học Ngành Ngôn ngữ Pháp. Truy cập ngày 18/8/2018 trên trang cac-nam. Nguyễn Văn Hoàng (2018). Les éléments nécessaires pour devenir un bon guide en français. Mémoire de fin d'études universitaires (KLTN). Université de Hué, École Supérieure de Langues Étrangères. Stach, S. (2017). Narrating Jewish history in free walking tours – warsaw as a case study. Kultura Popularna, 1(50), 76-91. Sánchez, A.V., & Ruiz, M.P. (2008). Competence-based learning: A proposal for the assessment of generic competences. Bilbao: University of Deusto. Shariff, N.M., Kayat, K., & Abidin, A.Z. (2014). Tourism and hospitality graduates competencies: Industry perceptions and expectations in the Malaysian perspectives. World Applied Sciences Journal, 31(11), 1992-2000. Zehrer, A., & Mössenlechner, C. (2009). Key competencies of tourism graduates: The employers' point of view. Journal of Teaching in Travel & Tourism, 9(3-4), 266-287. 10 Sinh viên Du lịch đi bộ miễn phí dành cho khách Pháp Ngữ Du khách Nhà trường Cộng đồng Thị trường lao động T p chí Khoa h c Ngôn ng và Văn hóaạ ọ ữ ISSN 25252674 T p 3, S 1, 2019ậ ố English Oxford living dictionaries. Trích xuất từ: https://en.oxforddictionaries.com/definition /competence. Sandemans new Europe. Trích xuất từ: https://www.neweuropetours.eu/main/en/home#about-us. Free your world. Trích xuất từ: https://www.freetour.com. Wix.com. Trích xuất từ: Hanoi free tour guides, Hanoi little ambassadors. "FRANCOPHONE FREE WALKING TOURS": PRATICAL MODEL OF LANGUAGE AND PROFESSIONAL COMPETENCES FOR STUDENTS OF TOURISM, FACULTY OF FRENCH, UNIVERSITY OF FOREIGN LANGUAGES, HUE UNIVERSITY Abstract: Students learning foreign languages in tourism need to practice their language and professional competences. Therefore, the "Francophone Free Walking Tours" model promises to be a very necessary practice model for them. Specifically, they will improve their language competences and practice their professional competences such as tour design, tour guide, product promotion and management in a selective team. After that, the tour was designed, promoted, practiced by students and was tested, reviewed, evaluated by a Francophone traveler. The model will be adjusted appropriately and will be applied to students in the next courses. Key words: Tourism, training, professional competence, language competence, practice model 11
File đính kèm:
- mo_hinh_thuc_hanh_ky_nang_ngon_ngu_va_nghe_nghiep_cho_sinh_v.pdf