Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và tương lai
TÓM TẮT
Bến Tre là điểm đến mới nổi trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và được biết đến là ``Xứ Dừa
của Việt Nam''. Số lượt khách đến Bến Tre hằng năm liên tục tăng nhưng doanh thu trung bình trên
lượt khách còn khá thấp so với những điểm đến khác. Hiện tại, sản phẩm du lịch của Bến Tre chủ
yếu là Du lịch nông nghiệp (DLNN), hầu hết được cung cấp bởi các điểm sản xuất nông nghiệp
truyền thống. Rất ít điểm DLNN thực hành sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Khách DLNN
đến Bến Tre chủ yếu là từ TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Do quy mô nhỏ các điểm kinh doanh
DLNN hiện chưa có điều kiện tiếp cận các thị trường lớn và cao cấp. Nhằm mục tiêu nhận diện các
mô hình kinh doanh DLNN hiện tại ở Bến Tre từ đó đề xuất các mô hình liên kết kinh doanh trong
tương lai, phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng để thực hiện nghiên cứu này. Dữ liệu
được thu thập bằng kỹ thuật quan sát tham gia kết hợp phỏng vấn trực tiếp tại Khu du lịch Phú An
Khang, Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ, Vườn sầu riêng Bảy Thảo và Hợp tác xã Du lịch sinh
thái cộng đồng Thạnh Phong. Nghiên cứu đề xuất trong tương lai Bến Tre nên liên kết các điểm
DLNN theo mô hình liên kết ngang để có điều kiện thuận lợi tiến hành các hoạt động xúc tiến sản
phẩm vào các thị trường mới có quy mô lớn và cao cấp. Mô hình liên kết ngang nên triển khai là
mô hình Hiệp hội tương tự như "Bienvenu à la ferme" (Pháp) và mô hình Tổng công ty tương tự như
Tổng công ty Marahastra (Ấn Độ) vì Bến Tre đang có những điều kiện tương đồng để hình thành
và phát triển
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình du lịch nông nghiệp ở Bến Tre - Hiện tại và tương lai
ác nhau nên sản phẩm của các điểm du lịch cũng khác nhau. Mỗi điểm có khúc thị trường riêng, hoạt động độc lập, tự thân phát triển nên không là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với nhau. Tuy vậy mỗi điểm với quy mô nhỏ khó phát triển nhanh vì không đủ năng lực đáp ứng nhu cầu của các thị trường khách cao cấp nội địa và quốc tế cũng như khó dành những khoản chi phí lớn để xúc tiến, quảng bá sản phẩm. Do đó nguồn khách chủ yếu của các điểm DLNN này là từ TP. Hồ Chí Minh và vùng lân cận. THẢO LUẬN VÀĐỀ XUẤT Trong nền kinh tế thị trường, những mô hình kinh doanh hiệu quả sẽ phát triển, mô hình kém hiệu quả sẽ phải mất đi. Tuy nhiên nhà nước sẽ hỗ trợ những nhóm yếu thế vì những lợi ích khác như ổn định xã hội, hạn chế di dân, giảm cách biệt thu nhập của dân cư ở nông thôn và thành thị Phát triển du lịch nông nghiệp dựa vào cộng đồng nên ưu tiên phát triển các nông trại quy mô nhỏ do người địa phương sở hữu và điều hành sẽ tối ưu hóa được chi phí nhờ tự sản xuất nguyên liệu và vận hành quy trình cung cấp dịch vụ 14. Nhưng quy mô nhỏ sẽ bị bất lợi vì không có được sức mạnh thị trường, khó tiếp cận được những thị trường lớn. Vì vậy, liên kết ngang là cách để tăng sức mạnh thị trường, để có điều kiện quảng bá sảnphẩmrộng rãi hơn và thực hiện quy trình cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên quản lý mạng lưới liên kết ngang các điểm DLNN đòi hỏi phải áp dụng phương pháp quản lý hiện đại và đây làmột thách thức lớn đối với mô hình cả cộng đồng tham gia. Bởi vì, thực tế là hiện nay ở nông thôn không riêng gì BếnTre, số người có trình độ đã và đang di chuyển về thành thị để sinh sống và làm việc. Việc đào tạo đòi hỏi phải có thời gian và người được đào tạo phải có trình độ học vấn nhất định còn thu hút nhân lực ngoài cộng đồng cũng không phải là dễ dàng vì họ phải rời xa môi trường sống quen thuộc. Chính vì “hạn chế về năng lực tổ chức quản lý mà Hợp tác xã Du lịch sinh thái cộng đồng Thạnh Phong qua gần 5 năm hoạt động không phát triển được” là nhận định củamột lãnh đạoPhòng Văn hóa thông tin huyện Thạnh Phú. Trong trường hợp thu hút được nhân lực quản lý thì cũng có nguy cơ xảy ra bất đồng lợi ích giữa người chủ và người quản lý điều hành. Mô hình DLNN cả cộng đồng tham gia với mô hình HTX đòi hỏi phải có thời gian để giải quyết vấn đề nhân lực quản lý nên trong nghiên cứu này chỉ đề xuất hai mô hình là Tổng Công ty và Hiệp hội. Từ mô hình mạng lưới “Bienvenue à la ferme” ở Pháp cho thấy BếnTre có thể áp dụngmôhình liên kết dạng này trong tương lai gần vì đã có những điều kiện tiền đề thuận lợi. Đó là sự quan tâm phát triển DLNN của chính quyền và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ tỉnh đến huyện. Tuy vậy, hiện các hoạt động liên quan đến liên kết và hợp tác chỉ là “trao đổi thông tin trong công tác quản lý nhà nước, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân lực du lịch, tổ chức các đoàn tham quan, học tập, khảo sát mô hình phát triển du lịch; phối hợp các tỉnh trong cụm phía Đông ĐBSCL tham gia gian hàng chung tại các sự kiện, hội chợ, triển lãm du lịch trong nước”3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoàn toàn có khả năng làm cầu nối để tổ chứcmạng lưới trong toàn tỉnh thông qua mạng lưới Phòng Văn hóa các huyện như cách tổ chức của mạng lưới “Bienvenue à la ferme” do đã có kinh nghiệm tổ chức Hiệp hội Du lịch của tỉnh. Mô hình này nên ưu tiên tập hợp các điểm du lịch cộng đồng quy mô nhỏ và sản xuất nông nghiệp truyền thống. Thời gian đầu xây dựng mạng lưới có thể tìm nguồn kinh phí từ các chương trình tài trợ của chính phủ hoặc của chính quyền địa phương chẳng hạn như kết nối những điểm đã từng nhận được tài trợ từ các dự án như dự án “Thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long tại tỉnh Bến Tre” (Adaptation to climate change in the Mekong Delta in Ben Tre Province, AMD). Sản phẩm DLNN của các thành viên trong mạng lưới nên chọn thành phần cốt lõi là các hoạt động ở các vườn cây đã có danh tiếng 818 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822 Hình 1: Các mô hình vận hành điểm DLNN hiện tại ở Bến Tre như “Dừa xiêm xanh”, “Bưởi da xanh”, “sầu riêng Cái Mơn”, (Chợ Lách), “xoài Tứ Quý” (Thạnh Phú), và ẩm thực đặc trưng xứ dừa để tạo ra sự khác biệt. Khi xây dựng được các tiêu chuẩn chất lượng nội bộ và thương hiệu sản phẩm thì tổ chức gắn logo cho sản phẩm của các thành viên như là một cam kết cung cấp sản phẩm đúng theo tiêu chuẩn chất lượng của mạng lưới. Thông qua mạng lưới triển khai những hoạt động xúc tiến, ứng dụng công nghệ nhận đặt chỗ, thanh toán nhằm tăng tiện ích cung cấp cho du khách. Khi mạng lưới đã vận hành tốt, các thành viên sẽ được hưởng lợi trước hết là tiếp cận nguồn khách và các tiện ích kết nối với du khách nên họ sẽ sẵn lòng đóng góp chi phí vận hành mạng lưới. Mạng lưới cũng cần phải thể hiện trách nhiệm chia sẻ lợi ích với cộng đồng qua một khoản trích để hỗ trợ những nhóm yếu thế trong cộng đồng, xây dựng các công trình chung phục vụ cộng đồng, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong cộng đồngđể nhận được sự ủng hộ của cộng đồng. Bến Tre hiện cũng đã có một vài công ty kinh doanh DLNN hoạt động hiệu quả, tăng trưởng tốt nên có thể phát triển mô hình liên kết kiểu mô hình của Tổng công ty DLNNMaharashtra, ở Ấn Độ. Công ty Mekong Travel với thương hiệu Út Trinh homstay đã thành công với cụm homstay ở cồn An Bình (Vĩnh Long), được chứng nhận danh hiệu “Homestay đạt chuẩn Asean” năm 2017 – 2019 15. Công ty Mekong Travel đã mở điểm homstay Út Trinh ở cồn TamHiệp (Bình Đại, Bến Tre), không chỉ cung cấp các dịch vụ trong phạm vi homstay như nghỉ đêm, ẩm thực địa phương mà còn liên kết với các hộ dân ở cồn Tam Hiệp để đưa khách trải nghiệm ở những nhà dân có hoạt động sản xuất nông nghiệp như vườn lá sâm, trại nuôi ong, vườn cây ăn tráiđể chia sẻ lợi ích cho cộng đồng. Công ty Hải Vân với thương hiệu Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ hiện đã có mạng lưới cung cấp thực phẩm và nguồn nhân lực tại chỗ cũng có khả năng phát triển thành công theo mô hình Tổng công ty. Như vậy, Mekong Travel và Hải Vân hiện đang có mạng lưới liên kết dọc hoạt động tốt. Từ kinh nghiệm tổ chức mạng lưới liên kết dọc, hai công ty này có nhiều khả năng phát triển thành công mạng lưới liên kết ngang với thương hiệu riêng như trường hợp của Tổng Công ty Maharashtra nếu lãnh đạo địa phương có chủ trương và hỗ trợ cách làm Hình 2. KẾT LUẬN Bến Tre có tài nguyên DLNN phong phú và hiện đã hình thành nhiều điểm cung cấp dịch vụ trải nghiệm đáp ứng được nhu cầu của du khách. Tùy theo điều kiện và năng lực của từng nơi, các điểm DLNN vận hành theo nhiều mô hình khác nhau nhưng có thể chia thành hai nhóm là dựa vào cộng đồng và dựa vào vốn. Khác biệt giữa hai mô hình này là các điểm theo mô hình dựa vào cộng đồng vận hành với nông nghiệp sạch truyền thống trong khi các điểm dựa vào vốn vận hành với nông nghiệp công nghệ cao. Mô hình DLNN dựa vào cộng đồng gồm ba nhóm là cả cộng đồng tham gia, một hoặc vài hộ trong cộng đồng tham gia và nhà đầu tư bên ngoài dựa vào cộng đồng. Hiện tại mô hình cả cộng đồng tham gia đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong khi các mô hình khác phát triển thuận lợi hơn. Tuy vậy dù vận hành theo mô hình nào tất cả đều bị hạn chế do quy mô nhỏ nên cần có sự liên kết thành một mạng lưới rộng lớn để có thể cùng tiến hành các hoạt độngmarketing chuyên nghiệp đến những thị trườngmới và cung cấp sản phẩm đáp ứng được mong đợi của khách hàng. Nghiên cứu đã đề xuất nên ưu tiên phát triển hai kiểu 819 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822 Hình 2: Mô hình liên kết DLNN trong tương lai ở Bến Tre liên kết ngang theomôhìnhTổng công ty du lịch nông nghiệp Maharashtra (Ấn Độ) và Mạng lưới “Bienv- enue à la ferme” (Pháp) là hai mô hình liên kết đã rất thành công trong thực tế phát triển DLNN và Bến Tre đang có những điều kiện phù hợp. LỜI CẢMƠN - Nhóm tác giả trân trọng cảm ơn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bến Tre, UBND và Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Thạnh Phú, UBND xã Thạnh Phong và Thạnh Hải, Ban Quản lý Khu du lịch Di tích đường Hồ Chí Minh trên biển huyệnThạnh Phú, Công ty TNHH Du lịch sinh thái Hải Vân đã nhiệt tình hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu này. - Đây là sản phẩm của đề tài cấp Nhà nước ”Phát triển chuỗi giá trị du lịch nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mới”. Mã số: KX.01.52/16- 20 DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT DLNN : Du lịch nông nghiệp ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long HTX : Hợp tác xã XUNGĐỘT LỢI ÍCH Bài báo này không có xung đột lợi ích. ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ 1. Tạo lập cơ sở dữ liệu sơ cấp bằng kỹ thuật quan sát kết hợp phỏng vấnmột đối một tại 4 điểmDLNN của tỉnh Bến Tre trong năm 2019. • Thu thập dữ liệu tại HTXDu lịch sinh thái cộng đồngThạnh Phong: Bích Tiên • Thu thập dữ liệu tại Khu du lịch Phú An Khang, Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ, Vườn sầu riêng BảyThảo: Mỹ Hạnh 2. Thu thập và xử lý dữ liệu thứ cấp tiếng Việt và tiếng Anh: Mỹ Hạnh & Bích Tiên • Xử lý các tài liệu tiếng Việt: Mỹ Hạnh • Xử lý các tài liệu tiếng Anh: Bích Tiên 3. Viết bài công bố kết quả nghiên cứu • Viết tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh, phần phương pháp nghiên cứu: Bích Tiên • Các nội dung còn lại của bài: Mỹ Hạnh ĐÓNGGÓP VỀMẶT KHOAHỌC Bài viết cung cấp kết quả nghiên cứu đạt được về các mô hình kinh doanh DLNN tại tỉnh Bến Tre – một điểm đến mới nổi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đóng góp về khoa học của bài viết là: • Phát triển khái niệmDLNN và điểmDLNN,mô hình liên kết DLNN • Chỉ ra bốn kiểu mô hình kinh doanh DLNN ở Bến Tre là (1) dựa vào vốn, (2) cả cộng đồng tham gia, (3) một/một vài hộ tham gia, (4) nhà đầu tư bên ngoài dựa vào cộng đồng • Đề xuất hai kiểu mô hình liên kết ngang trong kinh doanh DLNN là Tổng công ty và Hiệp hội. 820 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4(4):814-822 TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Technavio. Global Agritourism Market 2019-2023. 2019;. 2. Ciolac R, Adamov T, Iancu T, Popescu G, Lile R, Rujescu C at al. Agritourism-A SustainableDevelopment Factor for Improving the ’Health’ of Rural Settlements, Case Study Apuseni Moun- tains Area. Sustainability. 2019;11:14–67. Available from: https://doi.org/10.3390/su11051467. 3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Báo cáo Tổng kết tình hình hoạt độngdu lịch năm2018 vàphươnghướng, nhiệmvụnăm 2019;. 4. Arroyo CG, Barbieri C, Rich SR. Defining agritourism: A com- parative study of stakeholders’ perceptions in Missouri and North Carolina. Tourism Management . 2013;37(C):39–47. Available from: https://doi.org/10.1016/j.tourman.2012.12.007. 5. Phillip S, Hunter C, Blackstock K. A typology for defining agri- tourism. Tourism Management, Elsevier. 2010;31:754–758. Available from: https://doi.org/10.1016/j.tourman.2009.08.001. 6. Broccardo L, Culasso F, Truant E. Unlocking Value Creation Us- ing an Agritourism Business Model. Sustainability. 2017;9:16– 18. Available from: https://doi.org/10.3390/su9091618. 7. Kizos T, Iosifides T. The contradictions of agrotourism devel- opment in Greece: evidence from three case studies. South European Society and Politics. 2007;12:59–77. Available from: https://doi.org/10.1080/13608740601155443. 8. Lago NAA. Tourism Demand and Agriculture Supply: Basis for AgritourismDevelopment in Quezon Province. Asia Pacific Journal of Multidisciplinary Research. 2017;5(3). 9. BayeMR. Managerial Economics and Business Strategy. 7e ed. Mc GrawHill. 2010;p. 249. 10. Sznajder M, Przezbórska L, Scrimgeour F. Cooperation of agri- tourist entities in Agritourism book, CABI. 2009;p. 122. Avail- able from: https://doi.org/10.1079/9781845934828.0000. 11. Dossier de presse 2018 [online];Available from: https://www.bienvenue-a-la-ferme.com/files/download/ dossier_de_presse_2018.pdf. 12. Chaire de Tourisme Transat. Agritourism Development - Pre- liminary Report. ASG UQÀM. 2018;31:22. 13. Ingavale D. Agri Tourism - A Business Model of Agri Tourism Development Corporation. Management. 2015;4(1). 14. Khamung R. Analysis of Aptitudes, Aspirations, Capacities, and Resources for a Community-based Agritourism Establish- ment. Silpakorn University Journal of Social Sciences, Human- ities, and Arts. 2015;15(2):25–57. 15. Trảng N, Thúy P. Homestay - niềm vui và những trăn trở. Vĩnh Long online [06/02/2018] ;Available from: homestay-niem-vui-va-nhung-tran-tro-2880372/. 821 Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 4(4):814-822 Open Access Full Text Article Research Article 1Van Hien University, Vietnam 2Van Lang University, Vietnam Correspondence Doan Thi My Hanh, Van Hien University, Vietnam Email: hanhdtm@gmail.com History Received: 7/7/2020 Accepted: 23/12/2020 Published: 15/1/2021 DOI : 10.32508/stdjssh.v4i4.630 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Agritourism business model in Ben Tre – Present and future Doan Thi My Hanh1,*, Ma Bich Tien2 Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT Ben Tre is an emerging destination in the Mekong Delta and known as ``Vietnam's coconut king- dom''. The number of visitors to Ben Tre has been continuously increased, but the revenue per vis- itor is still quite low compared with other destinations. In the current, the tourism product of Ben Tre is mainly agritourism which mostly supplied by traditional agricultural production sites. Very few agritourism practice hi-tech agricultural productions. Most visitors visit Ben Tre are from HCMC and neighboring provinces. Due to the small scale of agritourism business sites, they have not been reached the large and high-end markets. This study aims to identify the current agritourism business models and then proposed future business linkage models. Qualitative method is used to conduct this study. Data is collected through observation techniques and combined with face- to-face interviews at Phu An Khang Tourist, Hai Van Farm- Van Ho Bird Sanctuary, Bay Thao Durian Garden, and Ecotourism cooperation of Thanh Phong community. This study proposes that in the future, Ben Tre should link agritourism business sites based on horizontal integrationmodel to pro- mote tourist products into a new market with large scale and high-end customers. The models of horizontal integration should be implemented as the association model as similar to "Bienvenu à la ferme" (France) and the corporation model as similar to Marahastra Corporation (India) because Ben Tre has the similar conditions conduct and develop these models. Key words: agritourism, Ben Tre, business model, horizontal integration Cite this article : Hanh D T M, Tien M B. Agritourism business model in Ben Tre – Present and future. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 4(4):814-822. 822
File đính kèm:
- mo_hinh_du_lich_nong_nghiep_o_ben_tre_hien_tai_va_tuong_lai.pdf