Mấy suy nghĩ về nghiên cứu làng xã tiếp cận theo hướng liên ngành và khu vực học
Nghiên cứu về làng xã ở Việt Nam từ trước đến nay, chủ yếu tiếp cận dựa trên
các khoa học chuyên ngành, như: lịch sử, văn hóa học, dân tộc học, xã hội học,
luật học, kinh tế học. Trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của khoa học xã
hội và nhân văn đã xuất hiện nhiều lý thuyết, nhiều phương pháp tiếp cận mới,
trong đó có tiếp cận theo hướng liên ngành và khu vực học. Chính vì vậy, việc
vận dụng hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học vào nghiên cứu khoa học
xã hội và nhân văn nói chung và nghiên cứu làng xã ở Việt Nam nói riêng đòi hỏi
nhiều cố gắng của mỗi nhà nghiên cứu cũng như nhóm nghiên cứu. Bài viết
bước đầu đưa ra nhận thức về tiếp cận liên ngành và khu vực học trong nghiên
cứu làng xã ở Việt Nam, qua đó làm cơ sở lý thuyết trả lời câu hỏi nghiên cứu:
Tiếp cận làng xã Việt Nam theo hướng liên ngành và khu vực học – hó hăn và
triển vọng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mấy suy nghĩ về nghiên cứu làng xã tiếp cận theo hướng liên ngành và khu vực học
sở hữu ruộng đất xưa kia lưu trong địa bạ của làng, hay dấu tích lịch sử của làng biên chép qua nguồn tư liệu gia phả, văn bia chữ Hán hầu như chưa được các nhà xã hội học bàn tới hoặc chưa khai thác triệt để. Để khắc phục những hạn chế khi tìm hiểu về làng xã, và “bước đầu” đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra khi tiếp cận làng xã bằng khoa học chuyên ngành theo hướng liên ngành và khu vực học, nhà nghiên cứu độc lập (cá nhân đơn lẻ phải tự trang bị và tổng hợp lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Một nhà nghiên cứu trong lĩnh vực sử học, khi nghiên cứu về làng xã theo hướng liên ngành và khu vực học, cần phải trang bị kiến thức về cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của văn hóa học, kinh tế học, xã hội học, tôn giáo học, nhân học, ngôn ngữ học Một ví dụ cho thấy khi đứng trên quan điểm lịch sử để nghiên cứu về làng xã, chúng ta chưa thể lý giải đầy đủ và cặn kẽ lịch sử xa xưa của một làng, đó là, khi nghiên cứu về tên gọi của làng Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), Đào Duy Anh (1997: 31-32) đã giải thích tên làng Cổ Loa như sau: “Muốn tìm ý nghĩa chữ Cổ, chúng ta hãy so sánh tên Cổ Loa với những tên Cổ Bôn và Cổ Định, Cổ Bôn là tên một làng ở tỉnh Thanh Hóa, huyện Thiệu Hóa, vốn có tên tục là Kẻ Bôn, khi đặt tên chữ đã trở thành Cổ Bôn. Cổ Định là một làng ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, theo tài liệu xưa [...], thì vốn tên tục là Kẻ Nưa [...], rồi đến khi đặt tên chữ cho làng thì trở thành Cổ Ninh, sau đổi làm Cổ Định. Đối chiếu chữ Cổ Loa với lai lịch chữ Cổ Bôn và Cổ Định, chúng ta có thể đoán rằng tên Cổ Loa hẳn là do tên Nôm cũ Kẻ Loa mà ra. Trong tiếng Việt Nam, có cái lệ lấy chữ Kẻ đặt lên trên một chữ khác để gọi tên một làng, chữ thứ hai này thường là chỉ một đặc điểm gì về địa lý hay về kinh tế của làng ấy, ví như Kẻ Chợ, Kẻ Noi, Kẻ Vẽ, Kẻ Mộc ở Bắc Bộ...”. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Trần Trí Dõi lại cho rằng cách giải thích tên làng Cổ Loa của Đào Duy Anh (từ Kẻ chuyển thành Cổ) là chưa thuyết phục. Theo quy tắc biến đổi ngữ âm lịch sử của tiếng Việt và cơ chế chuyển hóa ngữ âm từ địa danh Nôm (thuần Việt) sang địa danh Hán Việt, Trần Trí Dõi (2008: 209) cho rằng: “Chúng tôi nghiêng về cách giải thích Cổ Loa là địa danh Hán Việt liên quan về ngữ âm với một địa danh Hán Việt khác là Khả Lũ. Đồng thời, cả hai địa danh Hán Việt này lại có mối liên hệ ngữ âm địa danh Nôm là Chủ. Vậy là, ở đây để tìm hiểu xuất xứ của Cổ Loa, theo chúng tôi, chúng ta sẽ tìm hiểu trong mối quan hệ/liên hệ: Chủ - Khả Lũ - Cổ Loa”. Theo tư liệu dân gian làng Cổ Loa, thì vua Thục Phán An Dương Vương có tên gọi là Vua Chủ, do vậy, trong một nghiên cứu của mình, Nguyễn Từ Chi ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ 63 khi tìm hiểu về Cổ Loa đã có bài viết lấy tên là “Vua Chủ”. Để có bằng chứng thuyết phục hơn tên gọi làng Cổ Loa, nhà ngôn ngữ học Trần Trí Dõi (2008: 208) đã thống kê, phân tích tên gọi của 51 đơn vị làng xã vùng châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, bao gồm cả tên Nôm và tên Hán Việt, từ đó đưa ra lập luận và giải thích về tên gọi Cổ Loa là một quá trình biến đổi ngữ âm lịch sử mà thành, đó là: “klu/khlu - lũ/loa (Khả Lũ/Cổ Loa) và kl/khl/k - khả (Khả Lũ/Cổ Loa)”; và kết luận: “Nếu nhìn thuần túy ở mặt ngữ âm lịch sử tiếng Việt, rõ ràng sự hiện diện của tên Nôm chạ Chủ tương ứng với tên Hán Việt Cổ Loa hay Khả Lũ cho thấy khả năng Cổ Loa hay Khả Lũ hiện nay là hệ quả của cách Hán Việt hóa địa danh klủ hay tlủ trước kia” (Trần Trí Dõi, 2008: 217). Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận của Trần Trí Dõi khi giải thích tên gọi Cổ Loa mang tính hệ thống và có thể thuyết phục. Như vậy, nhà nghiên cứu độc lập khi tiếp cận làng xã theo hướng liên ngành và khu vực học phải cập nhật, bổ sung phương pháp tiếp cận của một số chuyên ngành liên quan. Song một nhà nghiên cứu độc lập khó có thể nắm bắt và tích hợp được đầy đủ phương pháp của nhiều chuyên ngành khác trong thời gian ngắn. Nhiều nghiên cứu đã tích hợp được nhưng thể hiện quan điểm của cá nhân, nên kết quả nghiên cứu vẫn mang tính chủ quan và bị chi phối bởi nhận thức đơn lẻ của nhà nghiên cứu đó. Chúng tôi cho rằng, giải pháp hiệu quả nhất khi nghiên cứu làng xã theo hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học là tổ chức thành các nhóm nghiên cứu (Team Research/Team Working) mà ở đó có sự cộng tác, được tổ chức bởi nhiều nhà khoa học đến từ nhiều chuyên ngành khác nhau. Giáo sư Yumio Sakurai (2014: 319) cho rằng, một chuyên gia sẽ gặp khó khăn khi tiếp cận theo hướng liên ngành và khu vực học, do vậy, sẽ hiệu quả hơn nếu tổ chức ra nhóm nghiên cứu: “Một chuyên gia không thể nghiên cứu nhiều lĩnh vực được. Nghiên cứu liên ngành khu vực học phải là nghiên cứu nhóm. Nghiên cứu liên ngành nhóm chia ra 3 loại: - Loại 1: Đa ngành (Multidiscipline) là các lĩnh vực nghiên cứu bằng phương pháp riêng đối với một khu vực. Cho nên kết quả độc lập, ít có quan hệ với các lĩnh vực khác; - Loại 2: Hợp tác ngành (Transdiscipline) là các lĩnh vực trao đổi kết quả để tương đối hóa kết quả của lĩnh vực riêng; - Loại 3: Liên ngành (Interdiscipline) là cả nhóm nghiên cứu toàn thể tổng hợp kết quả của mỗi lĩnh vực để quyết định cá tính khu vực”. Cùng quan điểm với Yumio Sakurai, Trần Lê Bảo (2009: 23) cho rằng: “Tiếp cận liên ngành phải dựa trên những hiểu biết sâu sắc về những chuyên ngành đó, nên cách tiếp cận này chỉ thực hiện được bởi những người có trình độ cao và khó có thể thực hiện chỉ bởi một nhà nghiên cứu mà đòi hỏi phải nghiên cứu theo nhóm”. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (265) 2020 64 Chương trình nghiên cứu về làng Bách Cốc - một mô hình nghiên cứu tiêu biểu xưa nay chưa từng có ở Việt Nam khi tiếp cận làng Việt theo hướng liên ngành và khu vực học. Cũng là một làng như bao làng quê khác ở châu thổ Bắc Bộ, Chương trình này đã huy động tổng lực với sự tham gia của hàng trăm nhà khoa học, đến từ nhiều chuyên ngành khác nhau: “Tuy không gian nghiên cứu chủ yếu chỉ ở một làng, nhưng số lượt các chuyên gia nghiên cứu lên tới 150 người thuộc hàng chục lĩnh vực khoa học khác nhau như địa chất, lịch sử, nông học, kinh tế học, xã hội học, khảo cổ học, nhân học, y học và việc hội ý trao đổi thông tin qua từng ngày thu thập tư liệu luôn được duy trì” (Vũ Minh Giang, 2009: 427). Hơn nữa, thời gian triển khai nghiên cứu không chỉ dừng ở 5 năm hay 10 năm mà thậm chí còn tiếp tục và lâu hơn nữa. Chúng tôi cho rằng, cho đến nay, chưa có chương trình nào nghiên cứu về làng xã ở Việt Nam vượt qua và xô đổ những “kỷ lục” mà Chương trình Bách Cốc đã xác lập. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả những nghiên cứu về làng xã ở Việt Nam khi tiếp cận liên ngành và khu vực học phải “sao chép” hay phải triển khai như Chương trình Bách Cốc. Trong khuôn khổ hạn hẹp về lực lượng nghiên cứu và năng lực tài chính, cùng nhiều yếu tố khác, bản thân giới khoa học Việt Nam khó mà triển khai được các nghiên cứu về làng xã theo mô hình của Bách Cốc, nhưng chúng ta nên kế thừa và học hỏi những kỹ năng, thao tác mà Chương trình này đã sử dụng, coi đây như một “hình mẫu” để hướng tới. Khi so sánh khuynh hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học giữa một bên là nhà nghiên cứu độc lập được trang bị lý thuyết và phương pháp của nhiều ngành khoa học khác nhau, với một bên là nhóm nghiên cứu tập hợp các chuyên gia của nhiều lĩnh vực để tiếp cận đối tượng là làng xã ở Việt Nam, thì điều chắc chắn là ưu thế sẽ thuộc về nhóm nghiên cứu, chứ không phải nhà nghiên cứu độc lập. Vì nhóm nghiên cứu là những đại diện từ các chuyên ngành, với lý thuyết và phương pháp tiếp cận vững chắc cùng hợp lại giải quyết một vấn đề. Những hạn chế trong quá trình tiếp cận của bất kỳ thành viên nào trong nhóm sẽ được bổ trợ bởi các thành viên khác. Với tính chất như vậy, ranh giới hay biên độ giữa các ngành sẽ mờ đi, qua đó tính liên ngành sẽ được đẩy lên cao. Đây là lợi thế so sánh vượt trội giữa một bên là nhóm nghiên cứu và một bên là cá nhân nghiên cứu độc lập cùng thực hiện một nhiệm vụ khoa học, mà ở đó yêu cầu liên ngành và khu vực học đặt lên hàng đầu. 3. THAY LỜI KẾT Nghiên cứu về làng xã ở Việt Nam tiếp cận bởi khoa học chuyên ngành đã đạt được nhiều thành tựu. Mặc dù vậy, trong bối cảnh vận động và biến đổi của làng xã hiện nay, nếu chúng ta tiếp tục duy trì cách nghiên cứu truyền ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ 65 thống, chủ yếu dựa vào lý thuyết đã có của khoa học chuyên ngành mà không cập nhật, áp dụng các phương pháp, lý thuyết nghiên cứu mới, các công cụ phân tích bổ trợ từ nhiều ngành khác nhau thì sẽ không giải quyết triệt để và nhận thức đầy đủ về đối tượng nghiên cứu - làng xã. Việc áp dụng hướng nghiên cứu liên ngành và khu vực học để nghiên cứu làng xã có thể được xem là luồng gió mới, mang tới những nhận thức mới, đầy đủ và toàn diện về làng xã, đồng thời bổ khuyết cho các nghiên cứu và nhận thức trước đây. Để thực hiện được các nghiên cứu về làng xã theo hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học, ngoài nghiên cứu chuyên ngành truyền thống thì hình thức tổ chức hoạt động nghiên cứu theo nhóm có ưu thế. Tuy nhiên, theo hình thức tổ chức nghiên cứu mới này đòi hỏi một quá trình tổ chức, chuẩn bị lâu dài của một tập thể các nhà khoa học và đối mặt với rất nhiều thách thức. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Abe Ken-ichi. 2006. “Nông nghiệp bóng (Shadow Agriculture): Các hoạt động nông nghiệp phi đồng ruộng ở vùng đồng bằng sông Hồng”, trong Hội Nghiên cứu làng xã Việt Nam, Nhật Bản. Thông tin Bách Cốc (số đặc biệt), tháng 7. 2. Dương Bá Phượng. 2001. ảo tồn và phát triển làng nghề trong quá tr nh công nghiệp hóa. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 3. Đào Duy Anh. 1997. Đất nước Việt Nam qua các đời. Huế: Nxb. Thuận Hóa. 4. Gourou Pierre. 2003. Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (bản dịch). TPHCM: Nxb. Trẻ. 5. Hà Văn Tấn. 2007. “Làng, liên làng và siêu làng (Mấy suy nghĩ về phương pháp)”, trong Hà Văn Tấn. Một số vấn đề lý luận sử học. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Kleinen John. 2007. Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ (bản dịch). Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng. 7. Nguyễn Hải Kế. 1996. Một làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 8. Nguyễn Hồng Phong. 1959. Xã thôn Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Văn sử địa. 9. Nguyễn Quang Ngọc. 1993. Về một số làng buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XVIII- XIX. Hà Nội: Hội Sử học Việt Nam. 10. Nguyễn Quang Ngọc. 2008. “20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành”, trong Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. 20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 11. Nguyễn Quang Ngọc. 2009. Một số vấn đề làng xã Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 12. Nguyễn Quang Ngọc. 2018. Nông thôn và Đô thị Việt Nam: Lịch sử, thực trạng và huynh hướng biến đổi. Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam. 13. Nguyễn Thị Phương Châm. 2009. Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay (Trường hợp làng Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đ nh ảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (265) 2020 66 Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa. 14. Nguyễn Thị Việt Thanh. 2008. “Nghiên cứu ngôn ngữ trong khu vực học”, trong Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. 20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 15. Nguyễn Từ Chi. 2003. “Vua Chủ”, trong Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. 16. Nguyễn Xuân Dũng (chủ biên). 2016. Hiện đại hóa làng nghề theo chiến lược tăng trưởng xanh: Trường hợp vùng đồng bằng sông Hồng. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 17. Phạm Hồng Tung. 2017. Hà Nội học: Cơ sở thực tiễn, nền tảng học thuật và định hướng phát triển. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 18. Phạm Thị Thùy Vinh. 2003. Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin. 19. Phan Đại Doãn. 2001. Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 20. Sakurai, Yumio. 2014. “Khu vực học là gì?”, trong Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển: 25 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 21. Tô Duy Hợp (chủ biên). 2003. Định hướng phát triển làng - xã đồng bằng sông Hồng ngày nay. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 22. Tô Duy Hợp. 1999. “Tác động của quá trình Đổi mới đối với các quan hệ xã hội cơ bản trong làng-xã đồng bằng sông Hồng”. Tạp chí Xã hội học, số 1. 23. Trần Lê Bảo. 2009. Khu vực học và Nhập môn Việt Nam học. Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam. 24. Trần Minh Yến. 2004. Làng nghề truyền thống trong quá tr nh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 25. Trần Thúc Việt. 2009. “Sử dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu văn học khu vực”, trong Université du Maine, Université Angers, Université De Nantes, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), International School (Đại học Quốc gia Hà Nội): Hội thảo quốc tế: Nghiên cứu Liên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn. Hà Nội, tháng 12. 26. Trần Trí Dõi. 2008. “Ba bài viết về địa danh Cổ Loa”, trong Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. 20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 27. Trần Từ. 1984. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 28. Trịnh Cẩm Lan. 2007. “Ngôn ngữ như là phương tiện và đối tượng của nghiên cứu khu vực”. Tạp chí Khoa học (Khoa học xã hội và nhân văn), (Đại học Quốc gia Hà Nội), số 1. 29. Viện sử học. 1977. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (nghiên cứu xã hội nông thôn truyền thống), tập 1. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 30. Viện sử học. 1978. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (nghiên cứu xã hội nông thôn truyền thống), tập 2. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ 67 31. Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội) - Khoa Khu vực học (Đại học Quốc gia Tokyo). 2006. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế Khu vực học: Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu. Hà Nội, tháng 11. 32. Vũ Duy Mền. 2006. Tìm về làng Việt xưa. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin 33. Vũ Duy Mền. 2010. Hương ước cổ làng xã đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 34. Vũ Minh Giang. 2009. “Chương trình Bách Cốc trong lịch sử nghiên cứu làng xã Việt Nam”, trong Vũ Minh Giang. Lịch sử Việt Nam: Truyền thống và hiện đại. Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam. 35. Vũ Quốc Thúc. 1950. Nền kinh tế công xã Việt Nam (Tư liệu đánh máy lưu tại Thư viện Viện Xã hội học, ký hiệu TL1481).
File đính kèm:
- may_suy_nghi_ve_nghien_cuu_lang_xa_tiep_can_theo_huong_lien.pdf