Marx trong thế kỷ XXI và những tư tưởng lớn của Marx về con người
Trong tương quan với học thuyết về tư bản và giá trị thặng dư, về quyết định
luận duy vật và hình thái kinh tế - xã hội, hay về giai cấp vô sản và chủ nghĩa xã hội
thì vấn đề con người không phải là chủ đề trung tâm của học thuyết Marx. Mặc dù vậy,
những tư tưởng của Marx về con người, dù được trình bày chủ yếu ở giai đoạn Marx
còn trẻ, lại vẫn đủ tầm vóc để tồn tại trong kho tàng tư tưởng loài người như là một học
thuyết bề thế, có ý nghĩa to lớn đối với các khoa học về con người và đối với sự nghiệp
giải phóng con người.
Trong khuôn khổ những hoạt động kỷ niệm 200 năm ngày sinh Karl Marx (1818-2018),
bài viết cung cấp thông tin về thái độ của cộng đồng thế giới đối với Marx trong những
năm gần đây.
Những tư tưởng lớn của Marx về con người được chúng tôi tập trung trình bày và đánh
giá giá trị đối với thời đại ngày nay là: 1) Con người là thực thể tự nhiên có tính người;
2) Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người; 3) Con người là những cá nhân hiện
thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ; 4) Bản chất con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội; 5) Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Đó là những tư tưởng thực sự có chiều kích
vĩ đại. Ngày nay, những tư tưởng này vẫn đang là tiền đề lý luận thực sự cốt lõi của nhiều
khoa học về con người. Trong đời sống hiện thực, những tư tưởng này cũng là những chỉ
dẫn thế giới quan và phương pháp luận cơ bản của nhiều lý thuyết xã hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Marx trong thế kỷ XXI và những tư tưởng lớn của Marx về con người
ằng, “giới tự nhiên là một bộ phận của đời sống con người”. Vì hai lý do: “thứ nhất, giới tự nhiên là tư liệu sinh sống trực tiếp đối với con người, và thứ hai giới tự nhiên là vật liệu, đối tượng và công cụ của hoạt động sinh sống của con người”. Theo nghĩa ấy, giới tự nhiên cũng là thân thể - thân thể vô cơ - của con người. Marx viết: “Giới tự nhiên - cụ thể là giới tự nhiên trong chừng mực nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ (*) “But man is not merely a natural being: he is a human natural being. That is to say, he is a being for himself. Therefore he is a species-being, and has to confi rm and manifest himself as such both in his being and in his knowing” (Trong phần Critique of Hegel’s Philosophy in General). của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 42, 2000: 135). Ở một đoạn khác, Marx còn nêu một ý tưởng rất hay có thể dùng để giải thích cho điều này. Marx cho rằng, đời sống của con người không những được duy trì nhờ dựa vào giới tự nhiên mà hơn thế nữa, giới tự nhiên còn là nguồn gốc của đời sống con người. Nếu con người không tự nó sáng tạo ra bản thân nó, thì tất nhiên kẻ sáng tạo ra nó phải ở bên ngoài nó. Kẻ đó chính là giới tự nhiên. Đó là lý do giải thích tại sao trong ý thức thông thường, sự sáng tạo của con người lại là biểu tượng rất khó từ bỏ. Nói chung, quần chúng không thể hiểu được “sự-tồn-tại- thông-qua-mình của tự nhiên” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 42, 2000: 180). Chúng tôi xem quan điểm “giới tự nhiên là thân thể của con người” là tư tưởng độc đáo, vì trong chừng mực mà chúng tôi được biết, từ thời cổ đại cho đến ngày nay, ngoài Marx, không có ai coi giới tự nhiên là thân thể của con người. Hầu hết các trường phái triết học phương Đông cổ đại tuy đề cao triết lý con người hòa hợp với tự nhiên, coi con người với giới tự nhiên là một, chủ trương “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân tương giao”, song cũng không đến mức coi tự nhiên là thân thể của con người. Sự tinh tế và sâu sắc của Marx thể hiện ở chỗ, vào thời của Marx, các vấn đề môi sinh chưa đặt ra một cách gay gắt đối với cuộc sống con người như ngày nay. Và dĩ nhiên, thời đó, Marx chưa thể biết tới lỗ thủng tầng Ozone, hiệu ứng nhà kính và các hiện tượng sinh thái phức tạp khác mà ngày nay chúng ta hay gọi là nguy cơ khủng hoảng sinh thái. Thế mà giới tự nhiên lại Marx trong thế kỷ XXI... 9 được Marx coi là thân thể - thân thể vô cơ của con người. Marx muốn nói rằng, mọi tác động của con người đến giới tự nhiên, đều có nghĩa là tác động đến thân thể con người. Làm tổn hại giới tự nhiên nghĩa là làm tổn hại chính con người. Đây không phải là điều suy diễn, mà chính Marx nói thế. Ông viết: “Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 42, 2000: 135). 3. Con người là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ Trong Hệ tư tưởng Đức, Marx và Engels viết: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 3, 1995: 29). “Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ như thế ấy. Do đó, họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách mà họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sản xuất của họ” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 3, 1995: 30). Vấn đề là ở chỗ, khi nói tới con người, nếu chỉ chú ý đến con người sinh học thì con người ở các thời đại chẳng khác nhau là bao. Vậy sự khác nhau giữa những con người, trên thực tế, là khác nhau về cái gì? Marx cho rằng chỉ có thể hiểu được con người khi xuất phát từ những tiền đề hiện thực trong nghiên cứu con người. Đó là hoạt động và những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Nói chính xác hơn đó là con người trong hoạt động và trong điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Đây là những tư tưởng rất căn bản đặt nền móng cho sự ra đời của lý thuyết hoạt động mà các nhà khoa học Xô viết đầu thế kỷ XX như A.R. Luria, L.S. Vưgosky, N.A. Leonchiev, X.L. Rubenstein cùng với nhiều nhà tâm lý học Đức, Pháp, Bungari đã phát triển thành một trường phái học thuật nghiên cứu tâm lý người. Trường phái này chủ trương giải thích mọi hiện tượng tâm lý, kể cả những hiện tượng phức tạp nhất, bằng hoạt động, bằng giao tiếp và trong các mối quan hệ xã hội. Tâm lý người, vì thế, mang bản chất xã hội, là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Trường phái này đã đạt được nhiều thành tựu và có ảnh hưởng đáng kể trong tâm lý học, giáo dục học đến tận ngày nay (Xem: Steven J. Haggbloom, 2002: 139-152). 4. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội Trong Luận cương thứ VI về Feuerbach, Marx viết: “Feuerbach hòa tan bản chất tôn giáo và bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 3, 1995: 11). Trong suốt nhiều thập niên ở thế kỷ XX, luận cương này đã trở thành tiền đề Thông tin Khoa học xã hội, số 7.201810 phương pháp luận cho nhiều nghiên cứu, khám phá khoa học và hoạch định những kế hoạch cải tạo xã hội. Trên thực tế, luận cương này đã ghi nhận mâu thuẫn thực tế của bản chất con người và loài người. Bản chất con người quy định và định hình mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, là phẩm chất không nằm ngoài từng cá nhân riêng rẽ, song bản chất ấy lại không phải là cái gì đó cô lập, trừu tượng, tách biệt với lịch sử và với thế giới xung quanh như Feuerbach và người đời vẫn hình dung. Bản chất ấy hóa ra lại là kết quả tổng hợp (tổng hòa) của tất cả các quan hệ xã hội mà mỗi chủ thể phải giao tiếp - các quan hệ xã hội thực tế, từ thiêng liêng, cao cả tới bình thường, hàng ngày - trong tính hiện thực của nó. I.T. Frolov coi luận cương này là một trong những điểm sâu sắc và sáng chói nhất của tư tưởng Marx, là phát kiến có tầm rộng nhất về con người, đạt tới tầm công thức tìm tòi vĩ đại. Frolov cho rằng, trong lịch sử nhận thức khoa học, khó mà tìm thấy một chân lý nào mà thoạt nhìn thì rất đơn giản và hiển nhiên, nhưng thực ra lại rất sâu sắc mà phải qua nhiều thế kỷ, với những tìm tòi khó khăn trong những cuộc đấu tranh tư tưởng khốc liệt mới có thể tìm ra và khẳng định được. Những năm 1980, luận cương này đã ít nhiều chịu sự phê phán là xem nhẹ yếu tố cá nhân, cá thể và sinh học. Các nhà khoa học đã tiến hành những kiểm chứng bằng nhiều cách thức khác nhau. Cuối cùng, mặc dù vẫn còn tranh cãi song người ta đã ghi nhận rằng, bản chất con người dẫu sao vẫn là trên cá nhân (phi cá nhân), “nó không định hình dưới hình thức cá nhân” (не имеет персо-нифицированной формы) và nó buộc phải thể hiện ra như là tổng hòa (tổng thể hòa đồng) của toàn bộ các quan hệ xã hội (Xem: V.E. Davidovich, 2003: 341-342). Về phương diện khoa học, nhận định này cho phép lý luận phân loại các loại bản chất người và điều đó có ý nghĩa đáng kể trong hoạt động thực tiễn. 5. Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Marx và Engels viết: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 4, 1995: 628). Marx và Engels giải thích, sau khi các quan hệ tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ trong xã hội loài người, giai cấp vô sản và chế độ của họ sẽ không thể tồn tại mãi. Khi hoàn thành sứ mệnh của mình, chế độ đó phải nhường chỗ cho “một liên hiệp của các cá nhân”, tức là một kiểu tổ chức xã hội hoàn toàn mới trong lịch sử, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Cần thiết phải nói rằng, trong đời sống tinh thần nhân loại, tự do xưa nay luôn là lý tưởng cao cả của tất cả các giai tầng, dù là thượng lưu hay chỉ là bình dân. Tôn giáo nào cũng răn dạy con người phải tôn trọng tự do của người khác bằng cách tiết chế tự do cá nhân. Triết học Hegel cũng đề cao “ý thức về tự do” nhưng trong tương quan với sự nhận thức về cái tất yếu. Nghĩa là về thực chất, tự do mỗi cá nhân không thể tránh khỏi làm hạn chế tự do của người khác và của toàn xã hội. Mỗi triết thuyết, mỗi tôn giáo đều đưa ra những cách thức, những phương án của riêng mình để giải quyết mâu thuẫn này. Nhưng điều đáng chú ý là, không có học thuyết nào, tôn giáo nào nhận thấy giữa Marx trong thế kỷ XXI... 11 tự do cá nhân và tự do của kẻ khác lại có thể tương dung với nhau, thậm chí là điều kiện cho nhau, như Marx. Đây rõ ràng là quan niệm độc đáo và hấp dẫn của Marx. Xã hội tương lai sẽ là một “liên hợp của các cá nhân”, ở đó, sự phát triển tự do của người này có vai trò tạo điều kiện để người khác được phát triển tự do hơn. Quan niệm mới nhất về phát triển con người của các tổ chức quốc tế ngày nay cũng khó đạt tới trình độ như vậy. Thay lời kết Mặc dù chủ nghĩa Marx vẫn đang bị hoài nghi ở mức độ không nhỏ và chủ nghĩa xã hội vẫn đang phải đối mặt với thái độ không mấy tin tưởng, nhưng với Marx - với tính cách là nhà tư tưởng, là nhà khoa học và là một con người - thì thái độ của hậu thế lại gần như hoàn toàn khác. Thời gian càng trôi đi, tầm vóc của ông càng trở nên vĩ đại, dù đây đó vẫn có người nhìn nhận và đánh giá ông với thái độ tiêu cực. Với tính cách là một con người, Marx tự thừa nhận tất cả những gì thuộc về con người đều không xa lạ đối với tôi (Nihil humani a me alienum puto) (https://www.marxists.org/archive/marx/ works/1865/04/01.htm). Thái độ này cho thấy Marx hiểu sâu sắc gốc rễ của con người là chính bản thân con người (K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 1, 1995: 580)(*). Con người là thực thể tự nhiên có tính người, tức là những cá nhân hiện thực, là sản phẩm của hoạt động của chính con người. Marx vĩ đại và được ngưỡng mộ, vì trước hết, ông không phải là thần thánh - tư tưởng của ông là tư tưởng của một con người. (*) “Triệt để có nghĩa là hiểu được sự vật đến tận gốc rễ của nó. Nhưng gốc rễ của con người là chính bản thân con người”. Với tính cách là nhà khoa học, Marx tự thừa nhận là người hoài nghi tất cả (De Omnibus Dubitandum). Trên lập trường khách quan này, ông đã cống hiến cho nhân loại nhiều phát minh có ý nghĩa “vạch thời đại”, trong đó có những phát minh về Giá trị thăng dư, về Chủ nghĩa duy vật lịch sử, về Hình thái kinh tế - xã hội Từ những phát minh rất cơ bản đó, lịch sử xã hội loài người hiện ra trong sự vận động không hề ngẫu nhiên, mà có những nền tảng và những động lực thực sự, tuân theo những quy luật khách quan, tất yếu của tiến bộ xã hội. Với tính cách là nhà tư tưởng, Marx được đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử loài người hơn 1.000 năm qua - nhà tư tưởng của các giải pháp trần thế thực hiện khát vọng xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công, chủ trương xây dựng một xã hội mà ở đó, tự do của mỗi người là điều kiện cho tự do của tất cả mọi người. Ngày nay, những người lao động, các phong trào xã hội, các nhà hoạt động xã hội và nhân loại tiến bộ vẫn chưa tìm thấy một nhà tư tưởng nào khác có thể thay thế Marx trong việc nhóm lên ngọn lửa đấu tranh cho việc giải quyết các vấn đề xã hội và phấn đấu cho lý tưởng cao đẹp về tiến bộ xã hội và giải phóng con người Tài liệu tham khảo 1. Alanna Petroff (2018), Karl Marx €0 bills are red hot, com/2018/04/19/news/zero-0-euro- bills-bank-notes-germany-karl-marx/ index.html 2. David Leopold (2009), The Young Karl Marx. German Philosophy, Modern Politics and Human Flourishing, Cambridge University Press. 3. Erich Fromm (1961), Marx’s Concept of Man. With a Translation of Thông tin Khoa học xã hội, số 7.201812 Marx’s Economic and Philosophical Manuscripts by T. B. Bottomore, Frederick Ungar, New York. 4. Justine Lacroix (2012), “Was Karl Marx truly against human rights? Individual emancipation and human rights theory”, Revue française de science politique, 2012/3 (Vol. 62), pp 433-451, https://www.cairn-int.info/ article-E_RFSP_623_0433--was-karl- marx-truly-against-human-rights.htm. 5. K. Marx, F. Engels Toàn tập, tập 1 (1995); tập 3 (1995); tập 4 (1995); tập 39 (1999); tập 42 (2000); Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Mark Skousen (2007), The Big Three in Economics: Adam Smith, Karl Marx and John Maynard Keynes, M.E. Sharpe, New York. 7. Marx’s K. “Confession”. Zalt-Bommel, 1 April 1865, https://www.marxists.org/ archive/marx/works/1865/04/01.htm 8. Susan Berry (2016), Karl Marx’s ‘Communist Manifesto’ Ranked Among Top Three Assigned College Texts, government/2016/01/29/karl-marxs- communist-manifesto-ranked-among- top-three-assigned-college-texts/ 9. Steven J. Haggbloom (2002), “The 100 Most Eminent Psychologists of the 20th Century”, Review of General Psychology, Vol. 6, No. 2, 139-152. 10. Steven Lukes (1982), “Can a Marxist believe in human rights?”, Praxis International, Issue: 1(4). 11. Terry Eagleton (2012), Tại sao Marx đúng, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 12. Thomas Piketty (2014), Le Capital au XXI siècle, Pub. Éditions du Seuil, Paris; Thomas Piketty (2014), Capital in the Twenty-First Century, Translated by Authur Gold Hammer, The Belknap Press of Harvard University Press, London. 13. V.E. Davidovich (2003), Dưới lăng kính triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. World Marx the millennium’s ‘greatest thinker’, 1545.stm 15. А.Г. Спиркин (2006), Философия, Гардарики, Москва. 16. П.С. Гуревич (2001), Философская антропология, Nota Bene, Москва. 17. Философия. основные идеи и принципы (1985), Политиздат, Москва. 18. Философия. Учебник для вузов (2005), Под общ. ред. док. проф. В. В. Миронова, Москва.
File đính kèm:
- marx_trong_the_ky_xxi_va_nhung_tu_tuong_lon_cua_marx_ve_con.pdf