Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức

Năm 2020 khép lại với những kết quả ấn tượng của nền kinh tế Việt Nam. Điều này được

coi là nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế vượt bậc vào năm 2021. Nhưng rủi ro tiềm

ẩn đến từ đại dịch COVID-19 đã tác động trực tiếp và gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam. Theo

phân tích của Oxford Economics, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực Đông Nam Á

có tăng trưởng GDP dương trong năm 2020 bởi dịch bệnh COVID-19, đạt 2,91% và sẽ hồi phục

8% trong năm 2021 [4]. Tuy nhiên, việc cam kết và thực hiện mở cửa quốc tế với những hiệp

định thương mại đã ký kết, như Hiệp định Ðối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

(CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu - EU (EVFTA), đem

đến cho Việt Nam nhiều cơ hội nhưng cũng ẩn chứa thách thức lớn với thị trường nội địa, sức

cạnh tranh doanh nghiệp trong nước trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19. Trên cơ sở phân tích

một số cơ hội và thách thức, bài viết đề xuất những giải pháp phát triển cho nền kinh tế Việt Nam

trong năm 2021.

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 1

Trang 1

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 2

Trang 2

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 3

Trang 3

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 4

Trang 4

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 5

Trang 5

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 6

Trang 6

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 7

Trang 7

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 8

Trang 8

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 9

Trang 9

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 6000
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức

Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội và thách thức
vào nguồn nguyên phụ liệu nhập 
khẩu từ Trung Quốc, lần lượt 61% và hơn 57%. Đa số các doanh nghiệp này chỉ trữ nguyên liệu 
tới cuối quý I/2021. Do vậy, nếu dịch kéo dài sẽ khiến các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu 
dệt may của Việt Nam khó khăn. Trong khi ngành chế biến gỗ, sản xuất bàn ghế thì chịu ảnh 
hưởng của thị trường xuất khẩu do hoạt động thương mại với Trung Quốc bị hạn chế. 
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
72
- Ngành thương mại, du lịch, vận tải và xuất -nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do chịu tác động 
trực tiếp của dịch bệnh. Vận tải hàng không, đường bộ và đường sắt, xe buýt, xe công nghệ, xe 
taxi cũng bị sụt giảm về doanh số do ảnh hưởng lượng khách đi du lịch giảm và hạn chế việc di 
chuyển từ địa bàn này sang địa bàn khác bởi dịch bệnh. Các cơ sở lưu trú, du lịch gặp nhiều khó 
khăn do khách hàng hủy tour, hủy đặt phòng. Hoạt động kinh doanh nhà hàng trầm lắng do tâm 
lý người dân ngại đến những nơi đông người và yêu cầu cách ly toàn xã hội của Chính phủ. 
- Ngành công nghiệp điện tử Việt Nam nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc là chủ yếu. Hiện 
tại, các biện pháp chống dịch sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn cung ứng đầu vào của doanh nghiệp 
cũng như thị trường đầu ra cho ngành điện tử Việt Nam.
- Lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản chịu ảnh hưởng nghiêm trọng vì phần lớn 
những sản phẩm trong ngành này của Việt Nam là xuất khẩu sang Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ; 
cộng với một lý do khác nữa là vẫn còn vấn đề thẻ vàng của EU và Trung Quốc khuyến khích 
tiêu dùng nội địa, siết chặt chi tiêu. Bên cạnh đó, nhiệt độ trung bình hằng năm ở Việt Nam tăng 
lên dẫn đến tình trạng hạn hán ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng, dịch tả lợn châu 
Phi chưa được khống chế hoàn toàn, cúm gia cầm và đặc biệt là dịch COVID-19 đã ảnh hưởng 
rất lớn đến mọi mặt cuộc sống xã hội. Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới sẽ chịu 
ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu. Hiện nay, biến đổi khí hậu toàn cầu đang 
diễn ra nhanh, tình trạng hạn hán nước biển xâm nhập sâu vào các tỉnh vùng Đồng bằng sông 
Cửu Long; sạt lở bờ biển xảy ra ở nhiều vùng; mưa đá, bão lũ tại các địa phương phía Bắc với 
cường độ lớn hơn, mức độ tàn phá cao hơn. 
Ngoài ra, căng thẳng thương mại diễn biến phức tạp, khó dự đoán được triển vọng kinh tế 
toàn cầu sẽ ảnh hưởng đối với thị trường ngoại hối, tài chính, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. 
Hơn nữa, sự kiện chuyển giao quyền lực tại Mỹ năm 2021 có ảnh hưởng nhất định đến cục diện 
kinh tế toàn cầu. Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia có thể chịu tổn thương nặng nề trước 
các cú sốc tài chính, thương mại nếu nền tảng trong nước không vững chắc.
Đối với vấn đề việc làm và nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực chưa được cải thiện 
cùng năng lực khoa học - công nghệ ở mức thấp có thể ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh của Việt 
Nam trên thị trường quốc tế và khả năng thu hút các dòng vốn tới Việt Nam. Tình trạng thất 
nghiệp, thiếu việc làm tăng cao sẽ ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Theo Tổng cục Thống kê, thị 
trường lao động trong quý IV/2020, có trên 1,2 triệu người trong độ tuổi lao động bị mất việc 
làm và hàng triệu lao động bị ngừng việc bởi dịch COVID-19. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao 
động năm 2020 là 2,48%, cao hơn 0,31 điểm phần trăm so với năm 2019 [7]. Việt Nam trở thành 
nước có thu nhập trung bình, thoát khỏi đói nghèo, đó là thành tựu của hơn 30 năm Đổi mới. Tuy 
nhiên, thách thức là nước ta không còn được vay ưu đãi với lãi suất thấp, ngược lại phải vay với 
lãi suất cao hơn.
Đối với vấn đề xã hội có chuyển biến xấu: Các vấn đề xã hội, nhất là ô nhiễm môi trường, 
biến đổi khí hậu, tắc nghẽn giao thông tại một số Thành phố lớn chưa được quan tâm xử lý; tín 
dụng đen có giảm nhưng vẫn còn là vấn đề nhức nhối; đặc biệt Việt Nam đã nổi lên là quốc gia có 
khí thải nhà kính bình quân đầu người tăng trưởng nhanh trên thế giới, khoảng 5% mỗi năm,.... 
Những vấn đề này nếu không được quan tâm giải quyết, sẽ trở thành điểm nghẽn đối với sự phát 
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới.
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
73
Đối với vấn đề đầu tư: Dịch bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực nên hoạt động đầu 
tư ngay lập tức bị tác động làm giảm đầu tư của toàn nền kinh tế trong ngắn hạn. Các nhà đầu 
tư mới dừng tìm kiếm cơ hội đầu tư, nhất là đầu tư FDI, ảnh hưởng tới thu hút đầu tư trong thời 
gian tới. Đối với các dự án đã đầu tư có khả năng sẽ hoãn lại việc tăng vốn đầu tư. Bên cạnh đó, 
động lực phát triển từ FDI sẽ tốt hơn nếu như các thủ tục hành chính và thuế quan được cải thiện 
bởi các doanh nghiệp phải tốn nhiều thời gian thanh toán thuế và hoàn thành các mẫu biểu về 
thủ tục hành chính. Tuy nhiên, sự chuyển dịch dòng vốn FDI từ nước ngoài vào Việt Nam có thể 
không như kỳ vọng bởi chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu sẽ dịch chuyển mạnh theo hướng 
đa dạng sau đại dịch COVID-19.
Đối với vấn đề nợ công: Nợ công có xu hướng tăng do khoản vay tăng lên. Theo báo cáo Bộ 
Tài chính, nợ công có xu hướng tăng, dự kiến tăng từ 56,8% (năm 2020) lên 58,6% (năm 2021) 
nhưng ở tầm kiểm soát được và thấp hơn so với mức trần 65% GDP [2]. Theo báo cáo về nợ 
công, Chính phủ dự kiến vay thêm khoảng 579 nghìn tỷ đồng vào năm 2021 để bù đắp bội chi 
ngân sách trung ương, vay để trả nợ gốc của ngân sách trung ương và vay để nhận nợ bảo hiểm 
xã hội. Trong bối cảnh dự báo thắt chặt thị trường vốn quốc tế, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của 
Chính phủ cũng sẽ tăng lên tương ứng gây sức ép trả nợ gốc lớn, thâm hụt ngân sách cao, 
Dự kiến nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ trong năm 2021 là khoảng 368 nghin tỷ đồng. Bên cạnh 
ngưỡng nợ công vẫn nằm trong giới hạn an toàn, việc gia tăng vay nợ mới, trả nợ cũ và bù đắp 
chi tiêu... đang tiềm ẩn khá nhiều rủi ro về tài chính cho quốc gia.
Đối với các thị trường: Thị trường bất động sản về cơ bản đang trong giai đoạn sàng lọc, bắt 
đầu xuất hiện chênh lệch cung - cầu ở một số phân khúc khiến giá tăng bất hợp lý; phân khúc 
Condotel xuất hiện khó khăn khi cung vượt cầu và chưa giải quyết được vấn đề pháp lý; tiềm 
lực tài chính của hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản khá hạn hẹp, phần lớn phụ 
thuộc vào nguồn vốn bên ngoài mà chủ yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Thị 
trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển nhanh, đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn trung dài hạn của 
doanh nghiệp, nhưng còn thiếu minh bạch, lãi suất phát hành ở một vài doanh nghiệp có nguy cơ 
phá vỡ mặt bằng lãi suất thị trường, cần hoàn thiện khung pháp lý và quản lý, giám sát cho lành 
mạnh hơn. Thị trường bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ, sẽ tăng lên khi xuất hiện dịch 
bệnh, khiến chi phí bồi thường tăng lên ở mức vừa phải. Tác động tiêu cực do dịch bệnh sẽ không 
diễn ra trong quý I/2021, có thể xảy ra trong 1 - 2 tháng sau sự cố. Thị trường chứng khoán được 
ví như hàn thử biểu của nền kinh tế, nên có nhiều thông tin bất lợi tới nền kinh tế như dịch bệnh 
COVID-19 sẽ phản ứng tức thì đó là bán tháo và giảm điểm khá mạnh; qua đó, các nhà đầu tư 
và các quỹ đầu tư sẽ gặp khó khăn trong việc huy động nguồn vốn hoặc có xu hướng thận trọng 
khi quyết định đầu tư ở các thị trường lớn.
Đối với hoạt động xuất - nhập khẩu: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các Hiệp định 
thương mại tự do có hiệu lực, các hàng hóa nhập khẩu có thuế suất còn 0% -5%. Đây sẽ là cuộc 
cạnh tranh rất gay gắt không chỉ trong nước mà còn cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài bởi 
các doanh nghiệp Việt phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ thấp, năng lực 
tài chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm lực tài chính 
hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Hiện nay, doanh nghiệp Việt 
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
74
tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu phần lớn là ở những công đoạn có trình độ công nghệ 
thấp, gia công, lắp ráp. Ngoài ra, ưu đãi thuế nhập khẩu làm cho khoản thu ngân sách từ thuế sẽ 
giảm theo rất nhiều. Khi Việt Nam gia nhập RCEP sẽ đặt ra thách thức cho ngành nông nghiệp 
đó là các mặt hàng tương đồng sẽ chịu sức ép cạnh tranh từ các quốc gia tham gia RCEP và nước 
ta cũng trở thành thị trường nhập khẩu nông sản lớn từ các quốc gia trong RCEP, dẫn đến nhiều 
doanh nghiệp sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt trong cuộc chiến chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế: Năm 2020 là năm được dự báo nằm trong chu kỳ suy thoái 
kinh tế chung của toàn thế giới, thông thường 10 năm một lần và Việt Nam cũng không ngoại lệ 
tránh khỏi xu hướng này, cụ thể khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra vào các năm 1997 - 1998, 
2008 - 2009 và đến năm nay 2021. Qua ba thập kỷ, GDP của toàn thế giới quý I của các năm đầu 
chu kỳ suy thoái đều giảm. Tuy nhiên, GDP quý I/2021 của nước ta giảm ít hơn cùng kỳ so với 
các năm trước. Do đó, tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng 
trưởng kinh tế của nước ta chậm lại trong quý I năm 2021. Như vậy, mức tăng trưởng kinh tế 
nước ta năm nay phụ thuộc lớn vào việc dịch bệnh được khống chế vào thời điểm nào.
2.3. Giải pháp phát triển kinh tế Việt Nam 
Để nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững và tăng trưởng thì phải nắm bắt cơ hội, vượt qua 
thách thức để đề ra những giải pháp thiết thực nhằm vừa phòng chống dịch bệnh hiệu quả, bảo 
vệ sức khoẻ nhân dân, vừa tận dụng tốt các cơ hội, nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội 
trong trạng thái bình thường mới. Sau đây là một số giải pháp phát triển kinh tế Việt Nam trong 
năm 2021 và thời gian tới:
Một là, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 
tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trên cơ 
sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; nâng cao khả 
năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Đồng thời, nghiên cứu mở rộng thị trường xuất 
khẩu sang các thị trường mới. Đổi mới cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, tập trung vào những hàng hóa 
Việt Nam có lợi thế.
Hai là, Chính phủ ưu tiên thực hiện chính sách hỗ trợ riêng đối với các doanh nghiệp bị 
ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19, để doanh nghiệp được giảm thuế thu nhập doanh 
nghiệp và các loại thuế khác, cho phép miễn tiền phạt chậm nộp thuế; miễn, giảm thuế xuất - 
nhập khẩu; miễn, giảm và hoàn thuế VAT; hỗ trợ tiếp cận các gói hỗ trợ tín dụng đối với doanh 
nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh; giảm lãi suất các khoản vay hiện tại, điều chỉnh linh hoạt 
thời điểm thanh toán nợ hay lãi, khoanh nợ; lùi thời gian nộp các khoản nghĩa vụ với ngân sách, 
giảm các khoản nộp và các loại phí để giảm bớt một phần gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp. 
Ba là, nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực, tăng cường giáo dục để đào 
tạo kỹ năng mà các thị trường yêu cầu, cần tập trung đầu tư vào chuyển đổi số; trong đó, đặc 
biệt là kỹ năng sử dụng công nghệ, tạo thêm nguồn lực tăng trưởng cho khu vực tư nhân. Cần 
tiếp tục cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc 
gia, tập trung trước hết vào tạo điều kiện thuận lợi hơn, hỗ trợ và khuyến khích mạnh mẽ hơn 
đối với phát triển kinh tế tư nhân. Thúc đẩy mạnh quá trình doanh nghiệp phát triển và ứng 
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
75
dụng khoa học công nghệ trong thương mại điện tử, giao nhận, chuyển phát, thanh toán điện 
tử trên môi trường số.
Bốn là, nâng cao chất lượng môi trường thể chế, quy hoạch, quảng bá và các hoạt động xúc 
tiến đầu tư FDI với Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, EU tập trung vào các ngành trọng điểm như: 
điện tử, sản xuất ô tô, chế biến nông thủy sản, tiết kiệm năng lượng và môi trường, để tạo điều 
kiện cho các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh thuận lợi. Đồng thời, hỗ trợ cung cấp thông tin về 
các thị trường xuất khẩu có lợi thế cho các doanh nghiệp, nhất là các thị trường mà nước ta đã ký 
kết các Hiệp định thương mại.
Năm là, đẩy mạnh giải ngân sử dụng vốn đầu tư công, vốn ngân sách, vốn đầu tư nước ngoài 
để làm động lực cho tăng trưởng. Xử lý các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai, thủ tục hành chính, 
thể chế để đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, 
đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất của nền 
kinh tế như: đẩy nhanh tiến độ đường cao tốc Bến Lức - Long Thành; mở rộng nhà ga T3 sân bay 
Tân Sơn Nhất; xây dựng mới sân bay Long Thành; đường cao tốc Bắc - Nam,...
Sáu là, các doanh nghiệp, tổ chức tài chính và nhà đầu tư cần vững tin vào nội lực của nền 
kinh tế, cũng như sức bền của thị trường nhằm góp phần hỗ trợ lấy đà tăng trưởng cho nền kinh 
tế. Theo dõi diễn biến thị trường tài chính và sử dụng đồng bộ các biện pháp ổn định thị trường 
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô cho nền kinh tế. 
Cuối cùng là, quản lý, khai thác có hiệu quả nguồn lực tài nguyên, tăng cường bảo vệ môi 
trường, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm an sinh xã hội, 
nâng cao nhận thức, trách nhiệm để người dân chủ động, tích cực phòng chống dịch bệnh.
3. KẾT LUẬN
Cơ hội sẽ được tạo ra bởi các chính sách tốt dẫn đến vốn FDI được đầu tư nhiều hơn. Thách 
thức bắt nguồn từ việc không cải thiện được các thể chế vận hành yếu kém và dịch bệnh đang diễn 
ra. Năm 2021, trước làn song nền kinh tế thế giới có xu hướng chững lại bởi căng thẳng địa chính 
trị và dịch bệnh COVID-19, các thách thức đã đặt nền kinh tế nước ta vào tình trạng “ảm đạm 
và bấp bênh” thiếu ổn định với hàng loạt rủi ro rình rập, cần những giải pháp căn cơ có tầm nhìn 
rộng để đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế tạo tiền đề giai đoạn 2021 - 2030 phát triển nhanh và 
bền vững. Sau khi dịch bệnh được kiểm soát, thị trường hàng hóa sẽ “bùng nổ” sau giai đoạn bị 
“nén lại”; do đó, các ngành sản xuất và dịch vụ chuẩn bị điều kiện tốt nhất nhằm đẩy mạnh tăng 
trưởng kinh tế, tạo đà thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bản tin thị trường lao động năm 2020.
2. Bộ Tài chính, Báo cáo nợ công năm 2018, 2019, 2020 và dự báo năm 2021.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 
4. Oxford Economics, Economic forecasts and reports 2021 in Vietnam.
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
76
5. Quốc hội (2019), Nghị quyết số 85/2019/QH14 ngày 11/11/2019 về kế hoạch phát triển kinh 
tế - xã hội năm 2020.
6. Tổng cục Hải quan (2021), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 
năm 2019, tháng 1/2021.
7. Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2020.
8. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia (NCIF), Triển vọng kinh tế 
Việt Nam 2021.
9. World Economic Forum (WEF), The Global Competitiveness Report 2019.

File đính kèm:

  • pdfkinh_te_viet_nam_nam_2021_co_hoi_va_thach_thuc.pdf