Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội, thách thức và triển vọng
Một quốc gia muốn tồn tại, phát triển thì vấn đcó tính quyết định là phải xác định được mục
tiêu tăng trưởng kinh tế của quốc gia cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn một cách phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh trong nước và quốc tế của từng thời kỳ. Đồng thời, các chính phủ cần phải
thực thi những giải pháp hữu hiệu để đạt được mục tiêu đó. Bài viết tập trung phân tích những
cơ hội, thách thức từ trong và ngoài nước đối với kinh tế Việt Nam trong năm 2021. Trên cơ sở
đó đưa ra dự báo về triển vọng mục tiêu tăng trưởng, đồng thời khuyến nghị các giải pháp nhằm
thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội, thách thức và triển vọng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh tế Việt Nam năm 2021: Cơ hội, thách thức và triển vọng
tính lên tới 28 nghìn tỷ USD tính đến năm 2025. Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam quy mô nhỏ và còn nhiều khó khăn, bất cập. Năm 2020, GDP của Việt Nam mới chỉ đạt 271,2 tỷ USD và GDP bình quân đầu người đạt 2.779 USD/người. Với sự tồn tại và diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 cả trong nước và quốc tế làm cho các nền kinh tế có quy mô nhỏ như Việt Nam rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các nền kinh tế lớn trên thế giới. Vì sức chống chịu của nền kinh tế quy mô nhỏ trước những biến cố nội tại nền kinh tế cũng như những biến cố từ bên ngoài yếu hơn. Ngoài ra, kinh tế Việt Nam hiện nay còn trong tình trạng mất cân đối tài khóa, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển thấp; phát triển hạ tầng chậm và còn nhiều bất cập; hiệu quả quản lý thấp; hệ thống ngân hàng - tài chính còn dễ bị tổn thương; tăng trưởng nền kinh tế còn phụ thuộc khá nhiều vào khu vực FDI, KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN 109 thiếu tự chủ công nghệ và nguyên liệu; chất lượng lao động thấp và khắc phục chậm; hiệu quả đầu tư công thấp và bộ máy công quyền còn cồng kềnh và nhũng nhiễu; tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm; Đây là những thách thức cốt lõi, xuất phát từ bản thân nội tại nền kinh tế nước ta, không có thể giải quyết triệt để trong thời gian ngắn được. Thứ ba, chính sách tài khóa khó khăn, chính sách phát triển doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa còn bộc lộ những bất cập trong cơ chế thực hiện nên hiệu quả chưa cao. Năm 2020, Ngân hàng Nhà nước đã ba lần hạ các công cụ lãi suất điều hành; việc lãi suất huy động tiền gửi liên tục hạ do cầu tín dụng giảm, đang đẩy dòng tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng ngày càng nhanh hơn. Các ngân hàng thương mại vẫn đang triển khai gói hỗ trợ tín dụng 250 nghìn tỷ VND, khiến chính sách vĩ mô nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Mặt khác, do sau nhiều năm thâm hụt ngân sách nên nguồn lực tài khóa bị hạn hẹp. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vẫn tiếp tục được thực hiện theo hướng khẩn trương, tập trung, theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp. Việc khoanh, ngưng, miễn giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp như lãi vay, tiền thuê đất tiếp tục triển khai cùng với việc phòng chống dịch COVID-19 và trợ cấp an sinh xã hội do ảnh hưởng của dịch bệnh đang tạo áp lực lớn lên cán cân ngân sách nhà nước. Các chính sách về phát triển doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được thực hiện. Luật Hỗ trợ DNNVV đã ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã thiết lập đồng bộ các chính sách, chương trình hỗ trợ DNNVV nhằm nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng của DNNVV. Đến tháng 3/2018 Chính phủ ban hành Nghị định số 39/2018/NĐ- CP hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật Hỗ trợ DNNVV. Kết quả là tốc độ tăng doanh nghiệp bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 14,4%, tăng khoảng 80% so với bình quân giai đoạn 2011 - 2015. Tuy nhiên, sau 3 năm thực hiện Nghị định 39/2018/NĐ-CP đã bộc lộ những bất cập trong thực hiện cơ chế hỗ trợ DNNVV, như các các bất cập về định mức hỗ trợ, cách thức, quy trình, nội dung hỗ trợ, nguồn kinh phí thực hiện, cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương; Do còn vướng mắc về thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh, sự không rõ ràng giữa các quy định pháp lý, nên nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được với các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước, Mặt khác, do năng lực của các đơn vị đầu mối thực hiện trợ giúp DNNVV còn yếu và thiếu, nguồn lực để triển khai các chính sách hỗ trợ còn hạn chế nên các địa phương chưa chủ động bố trí được kinh phí hỗ trợ, định mức hỗ trợ của ngân sách nhà nước cho DNNVV chưa đảm bảo yếu tố thị trường, nên các chương trình hỗ trợ chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn cần hỗ trợ của doanh nghiệp. Thứ tư, thiếu việc làm, thu nhập giảm, nguồn nhân lực xã hội bị lãng phí. Theo Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 12 năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người lao động từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch COVID-19, bao gồm: người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập, Trong đó, 69,2% người bị giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên và khoảng 14,0% buộc phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó, khu vực dịch vụ tới 71,6% lao động bị ảnh hưởng, công nghiệp và xây dựng 64,7%, khu vực nông, lâm nghiệp và KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 110 thủy sản là 26,4%. Số lao động có việc làm chính thức là 15,8 triệu người, giảm 21.100 người so với năm 2019. Tình trạng tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức tăng cao trong năm 2020 trái ngược với xu thế giảm những năm gần đây. Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV năm 2020 là gần 1,2 triệu người, tăng 136.800 người so với cùng kỳ năm trước và là con số cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 10 năm qua. Về thu nhập, thì thu nhập bình quân của người lao động năm 2020 là 5,5 triệu đồng, giảm 2,3% so với năm 2019 (tương ứng giảm 128.000 đồng/người/tháng). Thu nhập của lao động ngành dịch vụ bị giảm sâu nhất (215.000 đồng); tiếp đến là ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản (156.000 đồng); thấp nhất là ngành công nghiệp và xây dựng (100.000 đồng). 4. TRIỂN VỌNG VÀ KHUYẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP Căn cứ vào tình hình thực tế về kinh tế - xã hội trong nước và thế giới, đặc biệt là kết quả về chống đại dịch COVID-19 và điểm sáng về thành tựu kinh tế Việt Nam trong năm 2020, nhiều tổ chức kinh tế, các chuyên gia kinh tế thế giới và trong nước đã có những dự báo khác nhau về triển vọng kinh tế Việt Nam. Nhìn chung các dự báo đều đánh giá rất cao về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2021. Đáng chú ý nhất là Chính phủ Việt Nam đã rất quyết tâm đặt mục tiêu GDP năm 2021 tăng 6,5% (cao hơn 0,5% so với mục tiêu 6,0% mà Quốc hội đã thông qua). Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức của Việt nam như trên, tác giả cho rằng triển vọng của nền kinh tế Việt Nam năm 2021 sẽ tăng trưởng đạt mức 6,5%. Tuy nhiên, trong tình hình đại dịch COVID-19 diễn biến hết sức phức tạp cả ở trong và ngoài nước và khó đoán định như hiện nay thì cần nhận thức rõ, đây là một chỉ tiêu cao, đòi hỏi phải có sự quyết tâm, đồng lòng của cả hệ thống chính trị thì mới có thể thực hiện được. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng trên cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Một là, tiếp tục thực hiện “mục tiêu kép” - vừa phòng chống dịch bệnh COVID-19 hiệu quả, vừa nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới. Chính phủ cần có những bước đi nhất quán và có sự điều phối tốt để ứng phó với đại dịch, các chính sách cần ưu tiên bảo vệ điều kiện sống cho người dân, đặc biệt là những nhóm dễ chịu tác động và đảm bảo người lao động trở lại làm việc và các doanh nghiệp nối lại hoạt động trong môi trường an toàn. Đây là những điều kiện thiết yếu để bảo đảm kinh tế khu vực sẽ dần hồi phục một cách toàn diện và bền vững. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, chỉ tiêu GDP 6,5% có khả thi hay không tùy thuộc vào Việt Nam và thế giới có tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh hay không; các quốc gia phải kiểm soát được dịch bệnh thì Việt Nam mới có thể khai triển được những lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Hai là, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Trong điều kiện vừa phải phòng chống dịch bệnh COVID-19 có hiệu quả, vừa nỗ lực phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới, vấn đề cơ bản nhất là phải ổn định nền kinh tế vĩ mô. Muốn vậy một trong những điều kiện trọng yếu hiện nay của Việt Nam là đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN 111 tranh của nền kinh tế. Thực hiện hiệu quả, thực chất hơn việc cơ cấu lại và phát triển các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế. Ba là, thực hiện cơ chế, chính sách tài chính phù hợp với tình hình thực tế để kích thích tăng trưởng. Lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định, lạm phát phải được kiểm soát đây là tiền đề hết sức cần thiết cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý nợ xấu, nhất là các ngân hàng thương mại yếu kém, bảo đảm an toàn hệ thống. Thực hiện các giải pháp tài khóa, tiền tệ mở rộng phù hợp để kích thích tổng cầu, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các ngành, lĩnh vực trọng yếu. Tiếp tục thực hiện giảm chi phí sản xuất, kinh doanh thông qua giải pháp thực hiện các chính sách miễn, giảm phí và gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất; thúc đẩy tăng trưởng, giảm thiểu tác động xấu của dịch bệnh COVID-19. Bốn là, thực hiện đầu tư có trọng điểm để phát triển sản xuất, vừa phát triển thị trường trong nước vừa mở rộng, phát triển thị trường ngoài nước. Trong bối cảnh phải thực hiện “mục tiêu kép”, Chính phủ cần phải chú ý thúc đẩy đầu tư có trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, nhất là đầu tư công. Tập trung vào các dự án trọng điểm quốc gia đã được phê duyệt và đã được bố trí vốn thực hiện trong các tháng còn lại của năm để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; tập trung đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy nhanh quá trình đầu tư vào nền tảng hạ tầng công nghệ. Đẩy nhanh giải ngân đối với các công trình giao thông quy mô lớn, các công trình đầu mối công nghiệp quan trọng, có sức lan tỏa. Cần chú ý giữ vững, phát triển thị trường tiềm năng trong nước với quy mô gần 100 triệu dân. Đồng thời, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường xuất - nhập khẩu, tìm kiếm, mở rộng, phát triển các thị trường mới tiềm năng nhằm tránh phụ thuộc vào một số đối tác kinh tế lớn. Tận dụng tốt, hiệu quả các cơ hội do các hiệp định thương mại tự do đem lại, nhất là các hiệp định CPTPP và EVFTA. Đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vào các thị trường lớn như Mỹ, EU, Năm là, tiếp tục hoàn thiện thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong khu vực doanh nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng bộ máy quản lý nhà nước, đặc biệt ở địa phương, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Cải thiện các thủ tục hành chính và thuế quan để thu hút dòng vốn FDI và thúc đẩy xuất - nhập khẩu. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), các doanh nghiệp Việt Nam phải thanh toán thuế 6 lần một năm, tiêu tốn 384 giờ cho việc hoàn thành các mẫu biểu, chuẩn bị và trả thuế; mức thuế phải trả chiếm tới 37,6% lợi nhuận. Tạo thuận lợi để phát triển thương mại điện tử, ứng dụng thanh toán điện tử; hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường đầu ra qua hình thức thương mại điện tử; đẩy mạnh ứng dụng những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để thúc đẩy quản lý theo chuỗi, tạo điều kiện thuận lợi truy xuất nguồn gốc; Sáu là, tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển hơn nữa kinh tế tư nhân và FDI để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 112 Tiếp tục thực hiện giảm chi phí sản xuất, kinh doanh thông qua giải pháp thực hiện các chính sách miễn, giảm phí và gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất. Rà soát lại thể chế chính sách để khuyến khích và hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân đầu tư nhiều hơn, giảm thiểu những khó khăn và các rào cản để thu hút nhiều hơn FDI − đặc biệt là dòng FDI chất lượng, gắn với chuyển giao công nghệ cao, thân thiện môi trường. Rà soát lại các doanh nghiệp FDI theo hướng phân loại, đánh giá tuân thủ pháp luật, nhất là bảo vệ môi trường và chống chuyển giá. Rà soát lại các ưu tiên, ưu đãi cho các doanh FDI, tập trung cho những doanh nghiệp công nghệ cao có chuyển giao công nghệ, gắn kết với doanh nghiệp trong nước. Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ, bảo vệ môi trường và đổi mới sáng tạo là tiêu chí chủ yếu. Theo con số thống kê, hiện tại cơ cấu đóng góp trong GDP Việt Nam như sau: doanh nghiệp tư nhân khoảng 42%, doanh nghiệp FDI khoảng 20% và doanh nghiệp nhà nước là khoảng 28%. Bảy là, tiếp tục thúc đẩy sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn và nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Có một thời gian chúng ta đã chú trọng thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Kết quả là các DNNN được cổ phần hóa đã cải thiện được đáng kể về năng suất, chất lượng, hiệu quả huy động và sử dụng vốn; tăng lợi nhuận doanh nghiệp; nâng cao thu nhập người lao động và nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Tuy nhiên, cũng có những DNNN trong quá trình cổ phần hóa còn bị thất thoát vốn, thất thoát tài sản đáng kể và thời gian gần đây công tác cổ phần hóa DNNN lại có dấu hiệu chững lại. Để phục hồi, phát triển kinh tế năm 2021, cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN. Theo quan điểm của tác giả, việc cổ phần hóa DNNN chậm là một trong những nguyên nhân làm giảm khả năng tăng trưởng kinh tế trong cả trong trước mắt và tương lai. Nên nhớ rằng, hiện nay, các DNNN Việt Nam vẫn chi phối tới một phần ba nền kinh tế của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bnews.vn (2021), IMF nâng dự báo kinh tế toàn cầu năm 2021, truy cập lần cuối ngày 20 tháng 2 năm 2021, từ https://bnews.vn/imf -2021/185013.html 2. Baoquocte.vn (2021), EuroCham: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 tham vọng nhưng khả thi, truy cập lần cuối ngày 23 tháng 2 năm 2021, từ https://baoquocte.vn/ 135698.html 3. Dũng Nguyễn (2020), Bốn thách thức cho kinh tế Việt Nam 2021, truy cập lần cuối ngày 22 tháng 2 năm 2021, từ https://www.thesaigontimes.vn/td/311876/.html 4. Nhandan.com.vn (2021), Triển vọng tăng trưởng mới của kinh tế toàn cầu, truy cập lần cuối ngày 21 tháng 2 năm 2021, từ https://nhandan.com.vn/tin-tuc-the-gioi/634760/ 5. TS. Đoàn Văn Dũng (2020), Nhìn lại 10 năm thực hiện cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2021, từ https://www.quanlynhanuoc. vn/2020/06/30/ 6. Thủ tướng Chính phủ (2020), Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020; Dự kiến Kế hoạch năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021 - 2025, Thủ tướng Chính phủ trình bày trước Quốc hội ngày 20/10/2020. 7. Toquoc.vn (2021), Kết quả nổi bật của kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021, truy cập lần cuối ngày 17 tháng 2 năm 2021, từ https://toquoc.vn/ 20210125161125883.htm
File đính kèm:
- kinh_te_viet_nam_nam_2021_co_hoi_thach_thuc_va_trien_vong.pdf