Khoa học công nghệ điện - Số 6 - Năm 2018
Trước áp lực lên cao đòi hỏi tăng danh mục đầu
tư điện tái tạo trong bang từ phía cơ quan lập pháp
bang Illinois (Mỹ), các nhóm lợi ích đặc biệt và các
hộ tiêu thụ, Ủy ban Thương mại bang Illinois đã khởi
xướng công trình nghiên cứu NextGrid vào năm
2017 để đánh giá các sáng kiến hiện đại hóa lưới
điện ở bang Illinois. Một mục tiêu của nghiên cứu
này là đánh giá phương cách mà các công ty điện
lực của bang có thể tích hợp thêm các nguồn năng
lượng phân tán (DER) và tác động của các tài sản
lưới điện bổ sung này tới biểu giá điện và các mô
hình doanh thu. Một yếu tố quan trọng giúp đánh
giá giá trị và xác định vị trí đặt của DER là dự báo
phụ tải chính xác hơn và phù hợp với vị trí hơn, bao
gồm dự báo tổn thất năng lượng hệ thống tại vị trí
và tổn thất năng lượng phân tán không phân khoản
được (DUFE).
Phân tích này sẽ yêu cầu Ameren Illinois thu
thập dữ liệu chi tiết hơn theo thời gian và không
gian - không chỉ từ các tài sản phát điện DER mà còn
từ hàng triệu tài sản lưới điện khác đang thay đổi
liên tục để phản ứng với việc áp dụng DER và các
chương trình hiệu suất năng lượng. Ameren đã bắt
đầu phát triển một số dự án dự báo từ dưới lên trước
khi có yêu cầu nghiên cứu của Ủy ban Thương mại
bang Illinois. Các mô hình dự báo cho các dự án này
được tạo ra bằng cách sử dụng Nền tảng PowerRunner Energy Platform, một nền tảng ứng dụng doanh
nghiệp với lớp cấu trúc dữ liệu lớn có thể cấu hình
được và cung cấp dữ liệu công nghệ hoạt động và
dữ liệu công nghệ thông tin chi tiết cao theo thời
gian thực để hỗ trợ nền tảng ảo hóa dữ liệu doanh
nghiệp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khoa học công nghệ điện - Số 6 - Năm 2018
. Để tránh điều đó, công ty điện lực phải hoãn lại khoảng thời gian đóng mạch trở lại hoặc sử dụng sơ đồ khóa đóng mạch trở lại bất cứ khi nào phát hiện có điện áp phía phụ tải. Sơ đồ khóa đóng mạch trở lại trì hoãn việc phục hồi, làm tăng chi phí và, điều quan trọng nhất, không loại trừ được hình thành đảo điện. Các DER riêng lẻ vẫn phải tự ngắt mạch khỏi mạch đảo điện, và hành động này có thể gặp trở ngại khi có mặt nhiều DER. LẮP ĐẶT CÓ ĐỘ THÂM NHẬP CAO Công ty Điện lực Eversource Energy đã lắp đặt DGP trên một trong các mạch phân phối của mình chứa 10 địa điểm pin mặt trời (PV) của các nhà sản xuất điện độc lập. Vị CÁC ƯU ĐIỂM CỦA GIẢI PHÁP Tin cậy • Phương pháp Nguồn điện phân tán tùy chọn (DGP) hỏng nhưng vẫn an toàn. Linh hoạt và có thể mở rộng quy mô • Cho phép bổ sung dần các vị trí DER. An toàn trong tương lai • Tạo các lộ xuất tuyến “sẵn sàng dung nạp DER”. Dễ triển khai • Không đòi hỏi có thiết bị truyền thông tại các recloser giữa đường dây. • Công việc tại trạm biến áp được đơn giản hóa rất nhiều; không có sửa đổi khi thay đổi bố trí thiết bị giữa đường dây. An ninh mạng và chống chọc ngoáy • Hệ thống được kiểm soát riêng, không có giao diện bên ngoài; không dễ can thiệp. Đơn giản và không yêu cầu bảo trì • Không thay đổi chế độ đặt rơle hiện có; không cần lập mô hình và tính toán mạch phức tạp khi bổ sung những vị trí DER mới và khi điều kiện lưới điện (tỉ số nguồn điện/phụ tải) thay đổi. 29 KHCN Điện, số 6.201828 trí kết nối đầu tiên chứa 3 địa điểm DER được kết nối thông qua một recloser đường dây duy nhất được trang bị một bộ thu DGP duy nhất. Sau đó, có thêm 7 vị trí được kết nối, mỗi vị trí chứa một địa điểm DER duy nhất thông qua một recloser đường dây riêng biệt được trang bị một bộ thu DGP. Tín hiệu DGP tùy chọn được ghép nối với mạch điện ở trạm biến áp bằng một bộ truyền duy nhất. Tín hiệu sau đó lan truyền dọc theo đường dây và được tái lập khi cần thiết (bảy vị trí bộ tái lập đã được yêu cầu đối với mạch này). Tất cả các bộ thu DGP đều được hiệu chỉnh để cảm nhận tín hiệu DGP tùy chọn chung này và được thiết kế để tác động cắt công trình DER tương ứng của nó nếu như tín hiệu không có mặt tại vị trí PV. Trong các điều kiện bất thường, các bộ thu DGP nằm bên ngoài một recloser hở mạch hoặc dây dẫn pha bị đứt sẽ không nhận được tín hiệu tùy chọn và sẽ tác động cắt DER tương ứng của chúng. Một bản phân tích chi phí-lợi ích đối với mạch có độ thâm nhập cao này cho thấy chi phí-hiệu quả và khả năng mở rộng quy mô của hệ thống DGP so với cách thực hiện DTT truyền thống. Hệ thống DGP sử dụng 17 thiết bị đầu cuối và không sử dụng thiết bị truyền thông bên ngoài. Một giải pháp DTT tương đương sẽ yêu cầu 30 thiết bị đầu cuối và 15 đường truyền thông ra bên ngoài để truyền thông với từng vị trí DER và thu thập trạng thái của từng recloser giữa đường dây. Mọi bổ sung DER hoặc bố trí lại mạch trong tương lai sẽ yêu cầu thêm các đường dây truyền thông DTT và lập trình lại logic của bộ điều khiển. Một khi tín hiệu DGP được cài đặt trên một mạch điện để cung cấp các hệ thống lắp đặt DER ban biệt trên các mạch điện có độ thâm nhập DER cao. Điều này cho phép công ty điện lực chi phí một cách hiệu quả cho việc duy trì tin cậy nguồn điện liên kết thông qua các sơ đồ có truyền thông trợ giúp. Trên các mạch điện đã có DGP, khả năng truyền tin nhắn mã hóa số có thể đem lại một cơ hội không tốn kém cho các công ty điện lực để duy trì sự kiểm soát đối với các DER mà nếu không sẽ phải có DGP theo cách khác. Khả năng của DGP đặt một tín hiệu duy nhất trên mạch điện và gửi các lệnh kiểm soát đơn giản cho phép công ty điện lực chào bán một phương án lựa chọn thay thế đỡ tốn kém hơn cho các bên làm đơn DGP. Tín hiệu DGP có thể dễ dàng mở rộng trên mạch điện khi cần thiết. Nó có thể tích hợp nguồn thông tin và theo dõi trạng thái của dây dẫn cấp nguồn và các thiết bị nối lưới để cung cấp thông tin khẳng định về liền mạch với mỗi khách hàng DER. Đây là phương pháp đơn giản hơn và đáng tin cậy hơn để phát hiện chống hình thành đảo điện. Một khi DGP đã được lắp đặt trên mạch điện, các hệ thống DER trong tương lai có thể sẵn sàng được bổ sung với một chi phí gia tăng nhỏ, thời gian triển khai ngắn hơn và không cần phải sửa đổi hệ thống. Nói tóm lại, có thể coi mạch điện đã sẵn sàng cho DER. Biên dịch: Nguyễn Bình Theo “T&D World”, số 11/2018 Chú giải: R - Recloser TX - Bộ truyền RG - Bộ tái sinh RX - Bộ thu Thiết bị DGP Ví dụ về mạch DER có độ thâm nhập cao (Ảnh st) Số các thiết bị DGP yêu cầu trên mỗi khách hàng DER được kết nối Chi phí trên mỗi khách hàng DER giảm xuống khi số lượng kết nối DER tăng lên Số khách hàng DER Khả năng mở rộng quy mô nguồn điện phân tán tùy chọn (Chi phí/Khách hàng) (Ảnh st) đầu, những người làm đơn DER trong tương lai chỉ cần lắp đặt một bộ thu DGP và có thể phải mở rộng tính hiệu DGP tới điểm liên kết của chúng. Kết quả là đường cong chi phí biên đối với các hệ thống lắp đặt DER bổ sung có độ dốc đi xuống, bởi vì một tỉ lệ phần trăm lớn hơn của mạch điện đã được tín hiệu DGP bao phủ. Dưới đây là những kết luận quan trọng từ bản phân tích chi phí: • Sẽ rất kinh tế khi mà có nhiều khách hàng DER trên mạch điện. • Gia tăng chi phí để lắp đặt cùng loại thiết bị theo thời gian khi mà mỗi khách hàng DER được nối lưới cho thấy DGP là phương pháp kinh tế hơn đối với bảo vệ có truyền thông trợ giúp, chống tạo thành đảo điện trên các mạch điện có độ thâm nhập cao. Theo thời gian, chi phí bổ sung cho việc xây dựng hệ thống DGP sẽ tương đối thấp hơn, chủ yếu bởi vì không yêu cầu bổ sung thêm các công trình trạm biến áp. SO SÁNH CHI PHÍ CHUẨN Chi phí chuẩn để xây dựng toàn bộ hệ thống cùng lúc Gia tăng chí phí để xây dựng cũng hệ thống đó theo thời gian Chi phí chuẩn tối thiểu để bổ sung một DER cho một khu đã được cung cấp DTT/DGP hiện có DTT dựa trên cáp quang DTT dựa trên điện thoại DTT dựa trên radio (b) DGP 1,00 0,80 0,71 0,65 +19% +24% +25% +11% 0,50 (a) 1,00 0,60 0,59 a) Giả thiết trường hợp lý tưởng không cần bổ sung thêm cáp quang. (300m cáp quang bổ sung sẽ làm tăng chi phí chuẩn lên thành 0,72) b) Mặc dầu không có giải pháp khả thi đối với ví dụ độ thâm nhập cao này, với mục đích so sánh, chi phí radio đã được ước tính với giả thiết công trình lắp đặt là có thể thực hiện được. • Chi phí chuẩn hóa để cung cấp bảo vệ có truyền thông trợ giúp chống hình thành đảo điện đối với một khách hàng DER mới trên mạch điện đã được trang bị kỹ thuật này được giảm thiểu. Ngoại trừ khi cáp quang đã có mặt ở điểm ghép chung, DGP là phương pháp có chi phí thấp nhất. HIỆU QUẢ CỦA DGP Các hệ thống lắp đặt DER gia tăng nhanh chóng đã dẫn tới các yêu cầu vượt qua ngặt nghèo hơn và nhiều yêu cầu liên quan, làm tăng mối lo ngại rằng các sơ đồ chống hình thành đảo điện độc lập, cục bộ sẽ trở nên kém tin cậy hơn. Do vậy, ý tưởng chống hình thành đảo điện các DGP đã được phát triển và triển khai trên vài chục lộ xuất tuyến phân phối của Công ty Điện lực Eversource Energy, một số lộ xuất tuyến dài tới 32km. Với hơn 4 năm kinh nghiệm hoạt động, giải pháp DGP của Eversource Energy đã tỏ ra là lựa chọn tin cậy, hiệu quả về chi phí và dễ lắp đặt để duy trì sự kiểm soát của công ty điện lực đối với nguồn điện phân tán. Bởi vì DGP truyền các tín hiệu qua dây dẫn của công ty điện lực nên không cần đến phương tiện truyền thông bên ngoài. Điều này khiến công ty điện lực độc lập với các nhà cung cấp truyền thông bên thứ ba (ví dụ như các đường dây điện thoại thuê bao) và loại bỏ các chi phí truyền thông đường dây. DGP có thể được lắp đặt nhanh chóng, dễ dàng thích nghi với việc cấu hình lại các thiết bị giữa đường dây và mở rộng quy mô một cách kinh tế theo sự tăng trưởng DER. Do sử dụng các dây dẫn trên không của công ty điện lực nên DGP là một công nghệ tương đối ít bị ảnh hưởng bởi hiện tượng chọc ngoáy và tin tặc. Trách nhiệm pháp lý của công ty điện lực được giảm thiểu khi lựa chọn một công nghệ chống hình thành đảo điện được tối ưu hóa và được công ty điện lực kiểm soát, như là DGP. Các ví dụ trong cuộc sống thực này đã chứng minh rằng DGP thường có chi phí thấp hơn so với các dạng DTT khác, đặc GIẢI PHÁP SỰ CỐ 31 KHCN Điện, số 6.2018 - Làm chủ được dây chuyền công nghệ đang sử dụng * Mô tả bản chất của giải pháp: - Thay thế cảm biến đo mức nước cũ bằng bộ đo mức EFS11S1SDS 4141M1200 (FB04); nguồn cấp 220Vac; dải đo 1200mm. Nguyên lý hoạt động dựa trên phao nam châm di chuyển dọc trong thân thiết bị. Có các phao lật để chi thị trạng thái mức nước, có bộ cảm biến mức EFB 14020. Có đầu ra tương tự EFB - 3920, Ir 4-20mA. - Thực hiện đấu nối các tín hiệu đến bộ điều khiển lập trình PLC: Để có thể sử dụng cảm biến mới cần thực hiện: + Hiệu chỉnh độ mở của cơ cấu cấp khí bù chính. + Hiệu chỉnh bộ tiếp điểm mức nước và đấu nối tín hiệu về hệ thống điều khiển tổ máy. - Sửa đổi logic điều khiển các van khí bù chính, van bổ sung khí bù và các tuần tự ép nước nạp nước: + Tín hiệu cảm biến báo mức nước cao CL001 (trong chế độ bù): Cho phép thực hiện mở van khí bù chính. + Tín hiệu từ cảm biến báo mức nước thấp CL003: Cho phép thực hiện đóng van khí bù chính. 30 SÁNG KIẾN KỸ THUẬT A. MÔ TẢ GIẢI PHÁP: 1. Tình trạng kỹ thuật, tổ chức sản xuất hiện tại 1.1.Thiết bị cảm biến - Cảm biến đo mức nước trong buồng bánh xe công tác trong chế độ bù đồng bộ sử dụng cảm biến chênh áp loại: Saphia B0807DP4 nguồn cấp 15-36Vdc; Dòng điện ra: Ir = 4-20mA và thuộc loại: NQ1000 (tín hiệu sổ). - GE: Chế độ phát cùa tổ máy. - GC: Chế độ bù của tổ máy. - Tuy nhiên do sơ đồ cơ khí thuỷ công lắp đặt loại cảm biến này không phù hợp, tín hiệu đầu ra đáp ứng chậm và không chính xác, dẫn đến việc chuyến từ chế độ phát GE sang chế độ bù GC và ngược lại không thành công. 1.2. Logic điều khiển - Việc chuyển từ chế độ phát GE sang chế độ bù GC và ngược lại không thành công do tuần tự ép nước/nạp nước thực hiện quá lâu và thường dẫn đến dừng máy (tín hiệu từ cảm biến đưa về không chính xác, không đủ điều kiện để chuyển bước tuần tự, thời gian chuyển từ chế độ phát sang chế độ bù tối đa 2,5 phút; thời gian chuyển từ chế độ bù sang chế độ phát tối đa 3 phút). - Việc chuyển từ chế độ bù GC sang chế độ phát GE tuần tự nạp nước thực hiện quá lâu, lượng khí thoát ra hạ lưu rất chậm dẫn đến tổ máy dừng sự cố do nhận công suất từ lưới quá nhiều (bảo vệ 32R tác động dừng tổ máy). 1.3. Ưu điểm - Giá thành thiết bị thấp, dễ lắp đặt. 1.4. Nhược điểm - Mức nước ống xả chỉ thị không chính xác. - Việc thực hiện chuyển tổ máy từ chế độ phát GE sang chế độ bù GC và từ chế độ bù GC sang chế độ phát GE không thành công. LTS: Ban biên tập ấn phẩm Khoa học Công nghệ Điện xin giới thiệu giải pháp “Đưa chế độ bù đồng bộ tổ máy nhà máy thủy điện Sê San 4 vào làm việc” do nhóm tác giả Đào Tây Nguyên, Hồ Văn Vũ, Nguyễn Thanh Ân của Công ty Phát triển Thủy điện Sê San thực hiện, giúp đảm bảo tổ máy thực hiện chế độ bù đồng bộ hiệu quả, đồng thời giảm nguy cơ dừng máy sự cố khi chuyển đổi chế độ bù. ĐƯA CHẾ ĐỘ BÙ ĐỒNG BỘ TỔ MÁY NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN SÊ SAN 4 VÀO LÀM VIỆC Mức nước quá cao Mức nước cao Mức nước thấp Mức nước rất thấp 146,19 144,79 146,59 144,79 143,9 Sapia chênh áp Trước sửa đổi Công tắc mức cao Ghi chú: 1. Công tắc mức: NQ1000. 2. Saphia chênh áp: B0807DP4 Pv = (0-25)Kpa; Ir = (4-20)mA; Uv = (15-36)VDC; CCx:0,2 Bài và ảnh: Nhóm tác giả Công ty Phát triển Thủy điện Sê San Sơ đồ bố trí nguyên thủy các cảm biến đo mức nước trong buồng bánh xe công tác Bộ đo mức mới EFS11S1SDS được lắp đặt thay thế Công tắc mức NQ1000 (Hình bên trái) và Saphia chênh áp B0807DP4 (Hình bên phải) Ảnh chụp bộ đo mức mới EFS11S1SDS Mức nước quá cao Mức nước cao Mức nước thấp Mức nước rất thấp 146,59 146,19 145,89 145,19 144,79 DN40 3. Cảm biến mức nước Sau sửa đổi CL001 CL002 CL003 Ghi chú: 3. Cảm biến đo mức nước: EFS11S1SDS-414TM120; Dải đo: (0-1.200)mm Sơ đồ lắp đặt bộ đo mức mới EFS11S1SDS 2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến 2.1 Mục đích của giải pháp - Thay thể, cải tạo thiết bị đo lường mức nước ống xả bằng thiết bị có độ chính xác và làm việc tin cậy. - Lập trình sửa đổi chương trình điều khiển tổ máy để đưa chế độ bù tổ máy vào vận hành. 2.2. Những điểm khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp đang được áp dụng - Sử dụng các thiết bị từ các nước G7 có chất lượng cao, làm việc ổn định và dễ dàng thay thế khi có hư hỏng, đồng thời nhìn thấy được sự thay đổi của mức nước trong buồng bánh xe công tác, thuận lợi khi hiệu chỉnh thiết bị. 33 KHCN Điện, số 6.201832 SÁNG KIẾN KỸ THUẬT + Tín hiệu từ cảm biến báo mức nước cao CL002: Cho phép mở van bổ sung khí bù. + Tín hiệu từ cảm biến báo mức nước thấp CL003: Thực hiện đóng van khí bổ sung. - Sửa đổi tuần tự chuyển từ chế độ bù GC sang chế độ phát GE, cho phép lệnh mở cánh hướng WG trước khi thực hiện tuần tự ép nước. - Việc sửa đổi trên giúp tuần tự nạp nước thực hiện nhanh đảm bảo tổ máy không bị dừng sự cố do nhận công suất từ lưới quá nhiều. - Sửa đổi tuần tự chuyển từ chế độ phát GE sang chế độ phát GC: Khi có lệnh mở van khí bù chính nếu mức nước không giảm (sau 2 phút) thì tự động chuyển về chế độ phát (không đi dừng máy). 3. Quá trình áp dụng giải pháp trên thực tiễn hoặc áp dụng thử Giải pháp được áp dụng tại Nhà máy thủy điện Sê San 4 cho tổ máy H3 (từ 22/05/2016) và tổ máy H2 (từ 01/12/2017). Cho đến nay các thiết bị vẫn vận hành tin cậy, chính xác và từ khi hoàn thiện áp dụng giải pháp đến nay chưa có hư hỏng xảy ra. Giải pháp có thể được áp dụng cho các máy phát thủy điện tương tự, ví dụ như: Thủy điện Sơn La, Thủy điện Huội Quảng - Bản Chát, v.v,... B. HIỆU QUẢ THỰC TẾ THU ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG GIẢI PHÁP - Hiệu quả dự kiến: + Đảm bảo tổ máy thực hiện chế độ bù đồng bộ hiệu quả. + Góp phần hoàn thiện các chế độ vận hành máy phát điện NMTĐ Sê San 4, đồng thời giảm nguy cơ dừng máy sự cố khi chuyển đổi chế độ bù. + Làm chủ được dây chuyền công nghệ của hệ thống mà nhà máy đang sử dụng. + Dễ dàng mua sắm thiết bị thay thế trên thị trường với giá thành thấp. - Tính toán giá trị làm lợi: Đảm bảo tổ máy thực hiện chế độ bù đồng bộ hiệu quả, tránh nguy cơ dừng sự cố tổ máy, góp phần làm ổn định hệ thống điện Bố trí các cảm biến đo mức nước trong buồng bánh xe công tác sau khi cải tạo Logic điều khiển van khí bù chính Logic điều khiển van bổ sung khí bù Sơ đồ chuyển từ chế độ phát GE sang chế độ phát GC Sơ đồ chuyển từ chế độ phát GE sang chế độ phát GC Địa chỉ: Tầng 15, tháp A, tòa nhà EVN, 11 Cửa Bắc, Ba Đình, Hà Nội Điện thoại: 04.66946700 / 04.66946733 - Fax: 04.37725192 Email: evneic@evn.com.vn / tapchidienluc@gmail.com
File đính kèm:
- khoa_hoc_cong_nghe_dien_so_6_nam_2018.pdf