Kết quả và kinh nghiệm áp dụng các chuẩn nghề nghiệp, chuẩn kiểm định, mô hình đào tạo tiên tiến trong việc đổi mới chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo tại khoa Báo chí và truyền thông
TÓM TẮT
Từ thực tế tìm kiếm các giải pháp để đổi mới chương trình đào tạo (CTĐT) của khoa
Báo chí và Truyền thông (BC&TT) từ 2010 đến nay, báo cáo trình bày tổng hơp một số bài
học kinh nghiệm thực tiễn chính liên quan đến việc áp dụng giải pháp tích hợp CTĐT theo kiểu
module hóa, áp dụng cách tiếp cận CDIO vào việc xây dựng chuẩn đầu ra (CĐR) và CTĐT để
đáp ứng các tiêu chuẩn AUN-QA về kiểm định chương trình. Báo cáo phân tích 5 vấn đề đặt
ra đối với việc đổi mới CTĐT ngành Báo chí, cụ thể là: 1) tình trạng phi chuẩn nghề nghiệp
trong bối cảnh giáo dục nghề báo ở Việt Nam; 2) sự rời rạc giữa CĐR và CTĐT ngành Báo
chí; 3) CTĐT chỉ “tiệm cận” với năng lực thực hành nghề nghiệp của sinh viên tốt nghiệp
(SVTN); 4) CĐR và CTĐT không tương thích với chuẩn kiểm định; và 5) CTĐT không tương
thích với quốc tế. Từ đó, báo cáo tổng hợp 3 giải pháp mà khoa BC&TT đã thực hiện bào
gồm: 1) tổng hợp chuẩn nghề nghiệp từ các nguồn tham khảo tin cậy; 2) tích hợp CTĐT dựa
trên module hóa và áp dụng CDIO; và 3) thiết kế và sử dụng các học phần tích hợp trong
CTĐT. Khuyến nghị của báo cáo tập trung vào vấn đề phân tích bối cảnh giáo dục nghề nghiệp
khi áp dụng CDIO trong trường hợp của các ngành học khối XH&NV, sự cần thiết của việc tập
huấn chuyển giao nhận thức và kỹ năng áp dụng CDIO cho giảng viên và sự ràng buộc về
năng lực thiết kế CTĐT mà Đại học Quốc gia TP.HCM (VNU-HCM) nên áp dụng như một tiêu
chuẩn nội bộ đối với giảng viên.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả và kinh nghiệm áp dụng các chuẩn nghề nghiệp, chuẩn kiểm định, mô hình đào tạo tiên tiến trong việc đổi mới chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo tại khoa Báo chí và truyền thông
“tiệm cận” năng lực hành nghề của SVTN Đặc biệt từ góc độ của người học, CĐR và CTĐT thiết kế theo cách truyền thống không trực tiếp giúp họ hình thành một năng lực hành nghề ngay trong quá trình học. SVTN thường phải tự mình thực hiện việc tích hợp KSA để tự xây dựng năng lực hành nghề cho bản thân sau quá trình học, và không ít SVTN thất bại trong việc này. Việc cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng và thái độ hành vi cho người học trong CTĐT không được tổ chức thành những nội dung giáo dục tích hợp trong các học phần có kích thước lớn hơn đã khiến người học phải tự mình “nhặt nhạnh” năng lực hành nghề và chỉ có thể “tiệm cận” với năng lực hành nghề trong quá trình học chớ không có trải nghiệm hành nghề trực tiếp và cụ thể trong quá trình đào tạo. Mô hình phản ánh thực tế này có thể hình dung như sau: Hình 2: Mô hình SV tự liên kết các năng lực để tiệm cận với năng lực thực hành nghề nghiệp 1.4. CĐR và CTĐT không tương thích với tiêu chuẩn kiểm định Bên cạnh những hạn chế cố hữu về điều kiện nguồn lực của một nền giáo dục đại học dựa trên chi phí thấp, việc tổ chức CTĐT không có liên kết logic rõ ràng với CĐR dẫn đến thực tế là CTĐT của khoa không đáp ứng trực tiếp 5 tiêu chuẩn đầu và có thể ảnh hưởng xấu đến việc đáp ứng các tiêu chuẩn 11, 13, 14, 15 của AUN-QA. Đặc biệt, do việc phát biểu CĐR theo kiểu phiên ngược từ các môn học trong CTĐT, nội dung CTĐT vì thế không xuất phát từ định hướng đáp ứng CĐR, nên logic thiết kế CTĐT không rành mạch, không thể hiện hiển ngôn chuỗi giá trị thiết kế – thực thi – đánh giá của CTĐT. Một trong những chuỗi giá trị quan trọng trong khung logic AUN-QA là chuỗi EPPTSA (Expected Learning Outcomes – Programme Specification – Programme Structure & Content – Teaching & Learning Strategy – Student Assessment – Achievements) không được thể hiện rành mạch trong CTĐT báo chí. Hình 3: Chuỗi EPPTSA trong khung logic của bộ tiêu chuẩn AUN-QA 1.5. CTĐT không tương thích với quốc tế Trong một cơ hội đàm phán hợp tác tổ chức đào tạo 2+2 với Đại học Deakin (Australia), việc rà soát và khớp nối CTĐT giữa hai bên hầu như không thực hiện được. Lý do chính là phía Đại học Deakin không tìm thấy sự tương đồng cần thiết giữa CTĐT đào tạo ngành Báo chí của họ với CTĐT của khoa BC&TT. Việc tổ chức các môn học nhỏ, rời rạc đã dẫn đến một danh sách môn học quá nhiều và đặc biệt là với cách tổ chức đó, phía Đại học Deakin không nhận ra những năng lực nghề nghiệp nào cụ thể được hình thành trong CTĐT của khoa BC&TT. Trước đó, trong dự án MediaPro do Bộ Ngoại giao Anh tài trợ với sự hỗ trợ chuyên môn của Đại học City London (Anh) về thay đổi CTĐT báo chí, các chuyên gia quốc tế cũng tỏ ra lúng túng trước một danh mục các môn học nhỏ lẻ và quá chi tiết của CTĐT báo chí ở Việt Nam. Chính vậy trong dự án MediaPro, một trong những hướng đi chính của dự án là hỗ trợ để tích hợp CTĐT thành những môn học lớn hơn theo giải pháp module hóa. 2. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KINH NGHIỆM TRONG THỰC TẾ TRIỂN KHAI 2.1. Khái quát chuẩn nghề nghiệp từ các nguồn tham khảo tin cậy Tình trạng phi chuẩn nghề nghiệp đã nêu ở trên đặt ra cho các cơ sở đào tạo báo chí ở bậc đại học một yêu cầu là phải tự xác định những luận điểm quan trọng về chuẩn mực nghề báo làm chỗ dựa cho việc xây dựng các giá trị của CTĐT. Để thực hiện việc này, Khoa BC&TT xác định chọn cách: 1) tham khảo quan điểm chuyên gia; 2) tham khảo các bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của các nền báo chí phát triển; 3) tham khảo bộ quy tắc đạo đức được phát biểu bởi Hiệp hội Nhà báo Chuyên nghiệp (SPJ); 4) phân tích các khảo sát tòa soạn báo chí tiêu biểu. Kết quả của việc này là Khoa BC&TT xây dựng được một bộ nhận diện giá trị nghề báo và các yêu cầu cần có trong khung năng lực của người hành nghề báo chí ở hai vị trí mục tiêu của sinh viên tốt nghiệp như: phóng viên, biên tập viên. Công việc này được thực hiện trên một bảng miêu tả dựa vào 5 nhóm năng lực như trình bày trong bảng sau đây: Bảng 1: Bảng miêu tả khung năng lực nghề báo (do khoa BC&TT tổng hợp) Nhóm năng lực Các yêu cầu liên quan Kiến thức nền tảng Lịch sử, Văn hóa, Địa lý, Luật, Kinh tế, (knowledge) Chính trị, Xã hội học, Lý thuyết truyền thông, Loại hình, Thể loại Nhóm năng lực Các yêu cầu liên quan Năng lực tác nghiệp (competence Nhiếp ảnh, quay phim, dựng phim, viết tin, for technoware) phỏng vấn, tường thuật, biên tập, dàn trang, phát hành Năng lực về con người Đạo đức cá nhân, đạo đức nghề nghiệp, tố (competence for humanware) chất nghề nghiệp Năng lực về thông tin Ứng dụng CNTT, ngoại ngữ, giao tiếp, xử (competence for infoware) lý thông tin Năng lực về tổ chức Thể chế xã hội, tổ chức tòa soạn, làm việc (competence for orgaware) theo ekip sản xuất Cách làm này cũng thể hiện một vai trò quan trọng của giới đại học đối với giới nghề nghiệp. Giới đại học không thể chỉ chạy theo để đáp ứng các chuẩn nghề nghiệp, mà còn phải có ý thức trong việc góp phần tạo dựng nên những chuẩn mực đúng của các nghề nghiệp đó. 2.2. Tích hợp CTĐT dựa trên module hóa và áp dụng CDIO Tích hợp được xem là một trong những lựa chọn quan trọng về cách tiếp cận để tái cấu trúc CTĐT. Nhưng trong thực tế, tìm kiếm giải pháp phù hợp để tích hợp CTĐT ngành báo chí trong cảnh quan chung của các ngành khoa học XH&NV là điều vượt khỏi tập quán nhận thức của các giảng viên trong khoa. Ở thời điểm 2010, khoa BC&TT đã thực hiện một bước việc tích hợp CTĐT dựa trên công nghệ module hóa các học phần. CTĐT được tổ chức lại với một số môn học có kích thước lớn hơn, với những mục tiêu hướng đến năng lực thực hành nghề nghiệp cụ thể hơn. CTĐT chấp nhận sử dụng các học phần module có khối lượng lên đến 10 tín chỉ, trong đó có sự tích hợp KSA rõ ràng hơn để giúp SV đạt được một năng lực nghề nghiệp cụ thể. Chẳng hạn, module Báo in sẽ cung cấp cho SV các kiến thức liên quan đến báo in (K), phối hợp với việc hướng dẫn SV thực hành các kỹ năng nghề nghiệp (S) của người làm báo in và định hướng, rèn luyện cho SV những thái độ, hành vi (A) cần thiết. Module báo in sẽ kết thúc với một bài tập lớn dạng dự án, yêu cầu SV làm việc nhóm để tổ chức sản xuất một số cho một tờ báo in do họ giả định. Dựa theo đó, SV được hình thành một năng lực thực hành nghề nghiệp cụ thể trên đối tượng nghề nghiệp cụ thể là ấn phẩm báo in, từ việc lên ý tưởng nội dung cho đến việc làm tin tức, phóng sự, phỏng vấn, chụp ảnh, dàn trang và tổ chức tòa soạn. Chúng tôi gọi chuỗi tích hợp này trong module là chuỗi KSA-C. Giải pháp tích hợp theo kiểu module hóa chỉ mới giúp CTĐT của khoa cải tiến được một bước quan trọng là thực hiện được công thức tích hợp KSA-C trong một số học phần về nghiệp vụ, nhưng chưa thực hiện được các giá trị tích hợp trong toàn bộ CTĐT một cách có hệ thống và chưa thực hiện được chuỗi logic thiết kế – thực thi – đánh giá một cách rành mạch. Năm 2014, khoa BC&TT tiếp cận áp dụng quan điểm CDIO thông qua sự hỗ trợ của VNU-HCM. CDIO là một khung logic tiếp cận rất khoa học và tin cậy để một CTĐT bậc đại học thực hiện được chuỗi giá trị Thiết kế – Thực thi – Đánh giá, đảm bảo những gì được phát biểu trong CĐR đều là những gì phù hợp với kỳ vọng của các bên liên quan, đảm bảo những điều cam kết trong CĐR cũng là những gì được thực thi cụ thể trong nội dung chương trình dạy- học và được nhìn thấy rõ ràng trong kết quả đánh giá. CDIO gần như đã cung cấp một cách làm thuyết phục cho quan điểm “công nghệ giáo dục”. Tuy nhiên, vốn được xây dựng trên nền tảng kinh nghiệm ở các ngành giáo dục kỹ thuật, cộng với cách làm mang đậm tính chất “công nghệ giáo dục”, CDIO có thể bị giới giáo dục khối ngành XHNV nhận thức như một công thức kỹ thuật cứng nhắc và phức tạp, mang đặc điểm “phân tích tính”, không phù hợp với các ngành học XHNV vốn đòi hỏi “tổng hợp tính” về tư duy, mềm dẻo và đa dạng về hướng nghề nghiệp. Để áp dụng CDIO phù hợp với ngành XH&NV, khoa BC&TT xem việc thực hiện phân tích kỹ lưỡng bối cảnh giáo dục nghề báo ở bậc đại học, phân tích đúng sản phẩm và vòng đời sản phẩm của nghề báo chứ không áp dụng máy móc chuỗi CDIO. Kết quả của bước này sẽ liên quan và chi phối nhiều bước đi tiếp theo trong việc áp dụng các tiêu chuẩn CDIO nên khoa BC&TT đã mạnh dạn tùy chỉnh khung đề cương CDIO cho phù hợp với ngành báo chí. Các phân tích về sản phẩm cho thấy hai nhóm sản phẩm chính của nghề báo là SẢN PHẨM TIN TỨC và SẢN PHẨM THUYỀN THÔNG. Theo đó, hai chuỗi vòng đời được nhận diện và phản ánh vào nhóm 4 trong khung đề cương CDIO sẽ là: Hình 4: Kết quả tùy chỉnh nhóm CĐR 4 trong khung đề cương CDIO Các tùy chỉnh ở các nhóm 1, 2, 3 trong khung đề cương CDIO cũng được thực hiện theo các logic phân tích dựa trên khung năng lực nghề báo mà khoa đã tổng hợp được trong những lần cải tiến CTĐT trước đó. Bài học rút ra là, nhờ việc thực hiện tổng hợp được khung năng lực của nghề báo trong bối cảnh phi chuẩn nghề nghiệp của báo chí ở Việt Nam đã giúp khoa thực hiện việc tùy chỉnh khung đề cương CDIO thuận lợi hơn. Ở bước tổ chức khảo sát các bên liên quan về khung CĐR theo CDIO, khoa BC&TT phân biệt hai nhóm đáp viên khi thực hiện khảo sát nhà tuyển dụng: nhóm cốt lõi và nhóm tham khảo. Nhóm cốt lõi được hiểu là nhóm có giá trị tiêu biểu cho nghề báo, thuộc nhóm này là các cơ quan báo chí lớn, có tính chuyên nghiệp cao hơn so với những cơ quan báo chí khác và dữ liệu khảo sát được từ nhóm này phải là nguồn thông tin có độ tin cậy cao để tham khảo. Vì vậy, khoa BC&TT đã sử dụng phương pháp khảo sát trực tiếp, cử GV của khoa trực tiếp gặp đáp viên để phỏng vấn theo cấu trúc của bảng hỏi, có kết hợp với việc thảo luận về nội dung của câu hỏi nếu đáp viên không hiểu rõ. Nhờ cách làm này, khoa thu thập được những dữ liệu có độ chính xác và tin cậy cao để phục vụ cho việc lựa chọn CĐR. Đối với nhóm nhà tuyển dụng còn lại (nhóm tham khảo), khoa sử dụng phiếu hỏi trực tuyến và thực hiện khảo sát qua email. Thực tế cho thấy, do bảng hỏi dài nên mức độ tập trung và chất lượng trả lời của những câu hỏi phía cuối bảng hỏi thường có dấu hiệu thiếu tin cậy (đáp viên chọn một phương án trả lời trung tính cho nhiều câu hỏi). 2.3. Thiết kế và sử dụng các học phần tích hợp trong CTĐT Các phân tích về hạn chế của CTĐT trước đây cho thấy cần phải tìm kiếm giải pháp thiết kế các học phần vượt lên các thói quen cũ như: học phần nhỏ (2-3 tín chỉ), rời rạc (từng GV phụ trách riêng biệt). Dựa trên cách tiếp cận module hóa trong dự án MediaPro và cách tiếp cận CDIO, Khoa BC&TT đã phân biệt ba loại học phần sử dụng để thiết kế CTĐT dựa trên các mức độ tích hợp. Bảng 2: Mô tả 3 kiểu học phần tích hợp Công thức Khối lượng Giai đoạn bố Loại học phần Chức năng tích hợp tích lũy trí vào CTĐT Chủ yếu cung cấp kiến thức, kết hợp với rèn luyện kỹ năng và định Môn học hướng thái độ, hành vi ở Giai đoạn Ksa-c 2-3 tín chỉ (course) mức độ ban đầu, hình đầu thành một số kỹ năng thực hành trong bối cảnh học tập Cung cấp kiến thức đồng thời với việc rèn luyện kỹ năng và xây dựng thái độ tương ứng với một năng lực thực hành nghề nghiệp cụ thể nào đó Môn học lớn Giai đoạn KSA-c 4-8 tín chỉ bằng cách giao bài tập (module) giữa lớn hoặc dự án nhóm cuối môn học, đảm bảo SV có được một năng lực thực hành nghề nghiệp cụ thể sau khi học (trong hoàn cảnh mô phỏng) Giả định các kiến thức, kỹ năng và thái độ đã được trang bị trước đó, tập Đồ án trung vào tình huống giải Giai đoạn ksa-C 5-6 tín chỉ (project) quyết vấn đề thực tiễn cụ cuối thể để xây dựng năng lực thực hành nghề nghiệp cho SV Việc nhận diện và phân biệt 3 loại học phần tích hợp nói trên với sự phân tích các mức độ tích hợp cụ thể đã giúp cho việc tổ chức CTĐT có được logic liên kết chặt chẽ hơn. Ngoài ra, ở các học phần lớn (module), các phương án tổ chức giảng dạy theo kiểu sử dụng đồng giảng viên (co-lecturer), kết hợp với khách mời nói chuyện chuyên đề thực tế (speaker), sử dụng năng lực hỗ trợ của trợ giảng (tutor) và giao bài tập lớn cuối môn học đã cho phép liên kết quỹ thời gian, năng lực giảng viên và năng lực sinh viên hiệu quả hơn, tạo ra cơ hội tốt để SV hình thành năng lực thực hành nghề nghiệp. Việc bố trí các học phần có mức độ tích hợp khác nhau ở các giai đoạn đầu – giữa – cuối của CTĐT dựa trên các phân tích blackbox và ITU sẽ giúp cho việc tích hợp KSA để xây dựng năng lực thực hành nghề nghiệp cho SV theo mô hình dọc – bậc thang như mô tả trong mô hình sau: Hình 5: Tích hợp năng lực thực hành nghề nghiệp theo mô hình dọc – bậc thang 3. KHUYẾN NGHỊ Khuyến nghị 1: Vì CDIO vốn được xây dựng và phát triển trên giả định của bối cảnh giáo dục kỹ thuật, nên khi áp dụng vào trường hợp của các ngành khoa học XH&NV, cần đặc biệt lưu ý việc thực hiện phân tích bối cảnh giáo dục nghề nghiệp tương ứng, trong đó việc phân tích sản phẩm và vòng đời của sản phẩm trong lĩnh vực nghề nghiệp liên quan sẽ là một khâu then chốt cần được đầu tư thực hiện cẩn trọng nhất. Bởi vì, chính sự phân tích này sẽ mở đường cho những phân tích tiếp theo trong quá trình áp dụng CDIO. Khuyến nghị 2: Việc nghiên cứu sử dụng các môn học lớn (module) và các đồ án vào bối cảnh giáo dục các ngành XH&NV là rất cần thiết để thực hiện tích hợp CTĐT theo hướng xây dựng năng lực thực hành nghề nghiệp cụ thể cho người học ngay trong quá trình đào tạo. Tuy nhiên, vấn đề này có thể sẽ xung đột với những thói quen “cát cứ” của mỗi giảng viên trong việc phân công giảng dạy. Một sự chuyển giao nhận thức đầy đủ cho GV về vấn đề tích hợp sẽ là rất cần thiết để có được sự hợp tác thật sự của các GV trong quá trình thực hiện đồng giảng dạy các học phần tích hợp. Khuyến nghị 3: Ràng buộc giảng viên phải trải qua một khóa huấn luyện có chiều sâu về thiết kế CTĐT, thậm chí nen xem xét đó là điều kiện để cấp chứng chỉ giảng dạy chính thức tại VNU-HCM là một tiền đề quan trọng để nâng cao chất lượng thiết kế – thực thi – đánh giá của CTĐT các ngành học một cách bền vững và lâu dài. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] CDIO, [2] Đoàn Thị Minh Trinh (cb), Thiết Kế Và Phát Triển Chương Trình Đào Tạo Đáp Ứng Chuẩn Đầu Ra, Nxb ĐHQG Tp.HCM, 2012 [3] Đoàn Thị Minh Trinh - Nguyễn Hội Nghĩa, Hướng Dẫn Thiết Kế Và Phát Triển Chương Trình Đào Tạo Đáp Ứng Chuẩn Đầu Ra, Nxb ĐHQG Tp.HCM, 2014 [4] Hồ Tấn Nhựt - Đoàn Thị Minh Trinh (biên dịch), Cải Cách Và Xây Dựng Chương Trình Đào Tạo Kỹ Thuật Theo Phương Pháp Tiếp Cận CDIO, Nxb ĐHQG Tp.HCM, 2010 [5] Nguyễn Hữu Lộc - Phạm Công Bằng - Lê Ngọc Quỳnh Lam, Chương Trình Đào Tạo Tích Hợp: Từ Thiết Kế Đến Vận Hành, Nxb ĐHQG Tp.HCM, 2014 Thông tin về tác giả chính: Huỳnh Văn Thông, Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trưởng Khoa BC&TT từ năm 2009 đến nay Thông tin liên hệ: Email: huynhvanthong@yahoo.com hoặc hvthong@hcmussh.edu.vn Điện thoại: 090 8382 969 View publication stats
File đính kèm:
- ket_qua_va_kinh_nghiem_ap_dung_cac_chuan_nghe_nghiep_chuan_k.pdf