Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi

Lý thuyết Hệ thống thế giới hiện đại (Modern World-Systems Theory), mà trong

đó quan niệm về trung tâm và ngoại vi (Core - Peripheral Theory) đóng vai trò

là cách tiếp cận chủ yếu, khám phá những quan hệ hiện thực đã kiến tạo nên hệ

thống thế giới ngày nay, là một trong những lý thuyết khoa học xã hội đồ sộ nhất

thế kỷ XX. Người đề xuất lý thuyết này là Wallerstein, nhà xã hội học nổi tiếng

người Mỹ. (*)

Suốt từ thập niên 1970 đến nay, bằng lý thuyết của mình, Wallerstein đã có

tiếng nói ở hầu hết các sự kiện nóng của thế giới. Lý thuyết của ông trên thực tế

đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của giới khoa học và giới chính trị ở hầu

khắp các nước. Sách của Wallerstein được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng. Tên

tuổi của ông được giảng dạy ở khắp các giảng đường. Không chỉ đóng vai trò là

cách tiếp cận cho nhiều công trình nghiên cứu khoa học, lý thuyết Wallerstein

còn là phương pháp luận cho việc hoàn thiện “Khoa học Lịch sử toàn cầu”

(Universal History), trực tiếp làm cơ sở cho ủy ban Gulbenkian về tái cấu trúc

khoa học xã hội(**) và truyền cảm hứng cho một số phong trào chính trị xã hội

trên khắp thế giới. Tại các tổ chức của Liên Hợp Quốc như UNESCO, UNDP,

FAO suốt mấy chục năm qua, lý thuyết của Wallerstein thường xuyên được sử

dụng như một công cụ hữu hiệu để chống nghèo đói và giải quyết các vấn đề

kinh tế - xã hội(***).

ở Việt Nam trước thập niên 1990, Wallerstein hầu như không được nhắc tới. Chỉ

trong những năm gần đây, các nhà kinh tế học và xã hội học mới nói tới “Hệ

thống thế giới” và các nhà nghiên cứu văn hóa - xã hội mới nói tới quan điểm

“Trung tâm - ngoại vi” của ông. Tuy thế những hiểu biết về Wallerstein thể hiện

trên sách báo thường khá giản đơn. Không mấy ai chủ tâm đi sâu vào các lý

thuyết, dù là để phê phán hay là để tiếp thu, vận dụng. Thêm vào đó, trong tiếng

Việt, thuật ngữ “Hệ thống thế giới hiện đại” lại gợi lên những hiểu biết đã có ở

Việt Nam về “Lý thuyết hệ thống” (General System Theory) của Bertalanfly(****),

 

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 1

Trang 1

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 2

Trang 2

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 3

Trang 3

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 4

Trang 4

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 5

Trang 5

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 6

Trang 6

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 7

Trang 7

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 8

Trang 8

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 9

Trang 9

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 15 trang xuanhieu 4060
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi

Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi
sách còn bàn 
đến sự tăng 
tr−ởng mang 
tính nhịp điệu 
theo chu kỳ, những cuộc khủng hoảng 
và những biến đổi thực tế của chủ nghĩa 
t− bản với tính cách là một hệ thống thế 
giới đã ngày càng làm cho hệ thống thế 
giới mạnh thêm, những lý do khiến nền 
kinh tế t− bản chủ nghĩa đích thực trở 
thành nền kinh tế thế giới. Cuốn sách 
tập hợp ý kiến của Wallerstein tại nhiều 
cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa giai 
cấp và ý thức dân tộc. 
3. “Địa chính trị và địa văn hóa: các 
bài tiểu luận về sự biến đổi của hệ thống 
thế giới” (Immanuel Wallerstein, 1991) 
là tập tiểu luận thứ ba gồm các bài viết 
của Wallerstein viết từ năm 1982-1989. 
Những bài viết 
trong cuốn sách 
cung cấp quan 
điểm của 
Wallerstein về 
các sự kiện của 
thời kỳ này, 
đặc biệt là để 
giải thích 
những sự kiện 
đáng nhớ trong 
năm 1989. 
 Wallerstein 
cho rằng sự 
Immanuel Wallerstein 11 
sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa và 
sự suy giảm bá quyền của Mỹ trong hệ 
thống thế giới tính đến năm 1989 là có 
cùng một nguyên nhân. Đó là suy giảm 
mang tính chu kỳ của nền kinh tế thế 
giới. Theo Wallerstein, ng−ời ta sẽ 
không thể hiểu đ−ợc sự sụp đổ của hệ 
thống cộng sản, sự hợp nhất châu Âu và 
sự suy yếu t−ơng đối của Mỹ nếu không 
tính đến sự suy giảm mang tính chu kỳ 
của nền kinh tế thế giới trong hệ thống 
thế giới. 
4. Khi phân tích sự phát triển của 
văn hóa trong xu thế thách thức đối với 
sự thống trị của quan điểm địa văn hóa, 
Wallerstein đã nêu những quan điểm 
mới của mình về văn hóa. Những ý 
t−ởng của ông khá độc đáo và đã gây 
tranh cãi suốt từ ngày đó đến nay tại 
tất cả các ngành khoa học xã hội. Trong 
cuốn sách và sau đó là tại các diễn đàn, 
bằng nhiều cách khác nhau Wallerstein 
khẳng định (Xem: Enrique Dussel, 
2002, p.239-246): 
- Không có địa văn hóa trong ba thế 
kỷ đầu tiên của hệ thống thế giới, tức là 
trong thời kỳ tr−ớc Cách mạng t− sản 
Pháp 1789. 
- Với cuộc Cách mạng Pháp, địa 
văn hóa xuất hiện nh− một sự đối lập 
căng thẳng giữa ba hệ t− t−ởng - Chủ 
nghĩa bảo thủ (Hữu), Chủ nghĩa tự do 
(Trung tâm) và Chủ nghĩa xã hội (Tả). 
- Chủ nghĩa tự do (Liberalism) là 
ý thức hệ hiện hữu trong suốt hai thế kỷ 
từ năm 1789-1989. Tuy nhiên, nó sụp 
đổ cùng một lúc với chủ nghĩa xã hội 
hiện thực vào năm 1989. 
- Chủ nghĩa bá quyền Mỹ, cùng 
với “thời kỳ hiện đại” (Modern Age) của 
lịch sử bắt đầu từ 500 năm tr−ớc, đã 
đến giai đoạn kết thúc. Một “thời kỳ 
mới” xuất hiện, đó là “thời kỳ hỗn loạn 
mới” (New chaos Age), một “thời kỳ đen 
tối” (Dark Age) sẽ tiếp tục cho đến khi 
một hệ thống văn minh mới đ−ợc thành 
lập từ năm 2025-2050. 
5. Các khái niệm trung tâm - ngoại 
vi, theo Wallerstein, gắn liền với mô 
hình của kiểu quan hệ thống trị trong 
thế giới hiện đại dựa trên sự phân bổ 
không công bằng về các nguồn lực trong 
nền kinh tế và thể hiện qua các thể chế 
đ−ợc định đoạt ở các quốc gia trung tâm. 
Trung tâm giữ địa vị thống trị, chi phối 
và quyết định, trong khi các vùng ngoại 
vi có xu h−ớng bị cô lập, bị lệ thuộc và 
chịu thiệt thòi. Hội chứng thống trị - phụ 
thuộc này tác động mạnh mẽ vào cơ cấu 
kinh tế và trao đổi, cũng nh− phân bổ 
các nguồn lực. Trong sự phát triển của 
các không gian kinh tế, mức độ t−ơng 
phản và đối lập giữa trung tâm - ngoại vi 
đ−ợc thể hiện rõ nhất khi trung tâm xác 
lập đ−ợc địa vị thống trị của mình. Đó 
cũng là lúc “trạng thái cân bằng” giữa 
các vùng kinh tế đ−ợc th−ờng xuyên 
tuyên truyền nh− một mục tiêu của 
chính sách phát triển của các quốc gia. 
Dĩ nhiên, các trung tâm quyền lực về 
chính trị và th−ơng mại không phải lúc 
nào cũng giả dối trong sự tuyên truyền 
này. Tuy vậy, nhiều hạn chế và rào cản 
đã làm giảm sự thành công của những 
mục tiêu dân túy đó. Sức mạnh quán 
tính của trung tâm truyền thống, tham 
vọng và sự năng động của những trung 
tâm mới nổi, th−ờng có xu h−ớng cản trở 
hoặc ngăn chặn một trạng thái cân bằng 
giữa các khu vực kinh tế - xã hội trong 
sự phát triển (Xem: Dr. Christoph 
Stadel,  
Sự thu hút h−ớng tâm của các vùng 
trung tâm trong lịch sử đã gây nên các 
làn sóng di c− trong n−ớc và quốc tế, 
12 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2014 
làm mạnh thêm dòng chảy tài chính và 
th−ơng mại từ ngoại vi vào trung tâm. 
Hơn nữa, chính sách kinh tế ở cấp khu 
vực hoặc quốc gia th−ờng −u tiên cho 
các lợi ích của các vùng trung tâm. Mật 
độ dân số, số l−ợng các đơn vị bầu cử và 
số l−ợng các đại diện chính trị, khi quan 
hệ trung tâm - ngoại vi đ−ợc mở rộng, 
cũng làm tăng thêm tình trạng mất cân 
đối cao giữa các khu vực (Xem: Гусева, 
Светлана Юрьевна, 2003). 
Mô hình diễn tả sự chuyển dịch giữa trung 
tâm và ngoại vi trong một tài liệu 
của Liên Hợp Quốc (United Nations, 
6. Do đó, khu vực trung tâm trở 
thành “Trung tâm của sự tích lũy - 
Centers of Accumulation” ngày càng 
lớn, làm duy trì và sâu sắc thêm sự phát 
triển không đồng đều. Việc khai thác 
mạnh mẽ các nguồn tài nguyên và tạo 
ra các cơ hội kinh tế mới, kết hợp với 
chính sách khuyến khích các vùng 
trung tâm, đã kích thích sự xuất hiện 
của những trung tâm mới. Điều này 
thách thức quan điểm cho rằng trật tự 
địa kinh tế có xu h−ớng là không gian 
tĩnh và ít biến đổi. Trật tự địa kinh tế, 
trên thực tế và đặc biệt rõ trong thế giới 
hiện đại, đ−ợc hỗ trợ bởi sự di động của 
các nguồn lực, dòng chu chuyển th−ơng 
mại và dòng chảy của lực l−ợng lao 
động. Sức mạnh kinh tế và quyền lực 
chính trị, do vậy, ít xuất phát từ yếu tố 
địa lý đơn thuần, mà là từ quy luật của 
sự kiểm soát các công cụ sản xuất (Xem: 
Maurice Yeates, 1998, p.116). 
7. ở phạm vi quốc gia, trung tâm 
gồm những vùng thịnh v−ợng và phát 
triển nhất của một quốc gia, th−ờng là 
các thành phố lớn, thủ đô, cảng chính, 
các khu đô thị và công nghiệp lớn 
Vùng trung tâm đ−ợc h−ởng lợi nhiều 
nhất từ hệ thống kinh tế thế giới t− bản 
chủ nghĩa. 
Trong giai đoạn hệ thống thế giới 
xuất hiện vào thế kỷ XV-XVI, phần lớn 
phía Tây Bắc châu Âu nh− Anh, Pháp, 
Hà Lan đã phát triển nh− khu vực 
trung tâm đầu tiên. Nền chính trị của 
các quốc gia này cũng phát triển mạnh 
bởi chính phủ trung −ơng có bộ máy 
quan liêu rộng rãi, có đội quân lính 
đánh thuê hùng hậu. Giai cấp t− sản 
địa ph−ơng của trung tâm nắm quyền 
kiểm soát th−ơng mại và chiết khấu 
thặng d− th−ơng mại quốc tế phục vụ 
cho lợi ích riêng của họ. Dân số nông 
thôn cũng đ−ợc tăng thêm nhờ số l−ợng 
những ng−ời không có ruộng đất nh−ng 
làm công ăn l−ơng tại các trang trại và 
làm thuê ở nông thôn. Việc chuyển đổi 
từ nghĩa vụ kiểu nhà n−ớc phong kiến 
sang t− bản đã khuyến khích sự nổi lên 
của những ng−ời nông dân độc lập hoặc 
tiểu chủ nông thôn mới. Còn những 
nông dân nghèo thì di chuyển đến các 
thành phố, cung cấp lao động giá rẻ cho 
dịch vụ và sản xuất ở đô thị. Sản xuất 
nông nghiệp thời kỳ tích lũy t− bản tăng 
tr−ởng với −u thế ngày càng lớn của 
ng−ời nông dân th−ơng mại trong các 
ngành sản xuất, chăn nuôi gia súc và 
công nghệ nông nghiệp. 
Immanuel Wallerstein 13 
8. Đối diện với trung tâm là các 
vùng ngoại vi. Các khu vực ngoại vi của 
hệ thống kinh tế thế giới thiếu các chính 
phủ trung −ơng mạnh hoặc bị kiểm soát 
bởi các quốc gia khác, các tiểu bang 
khác. Xuất khẩu nguyên liệu thô vào 
trung tâm và tham gia guồng máy lao 
động bị c−ỡng chế là một thực tế có ở 
khắp mọi vùng ngoại vi. Trung tâm 
chiếm đoạt thặng d− của các ngoại vi 
bằng quan hệ th−ơng mại bất bình 
đẳng. Hai khu vực Đông Âu, đặc biệt là 
Ba Lan và Mỹ Latinh, thể hiện rõ đặc 
điểm của các khu vực ngoại vi. ở Ba 
Lan, vua bị mất quyền lực vào tay giai 
cấp quý tộc và Ba Lan đã trở thành nơi 
xuất khẩu lúa mì hàng đầu vào toàn bộ 
châu Âu hồi thế kỷ XVII-XVIII. 
9. Bán ngoại vi chiếm một vị trí 
trung gian giữa trung tâm và ngoại vi. 
Các quốc gia bán ngoại vi có thể di 
chuyển đến một cấp độ cao hơn hoặc 
thấp hơn trong xu thế muốn thoát khỏi 
địa vị ngoại vi. Các khu vực bán ngoại vi 
th−ờng hình thành bằng cách đại diện 
cho một vùng trung tâm bị suy giảm 
hoặc từ một vùng ngoại vi cố gắng cải 
thiện vị trí t−ơng đối của mình trong hệ 
thống kinh tế thế giới. Bán ngoại vi là 
vùng đệm giữa trung tâm và ngoại vi. 
Thời kỳ đầu, thế kỷ XV-XVI, Bồ Đào 
Nha và Tây Ban Nha là những trung 
tâm kinh tế suy giảm và trở thành bán 
ngoại vi. Các n−ớc thực dân này nhập 
khẩu vàng và bạc từ các thuộc địa của 
mình ở Mỹ Latinh, chủ yếu bằng lao 
động c−ỡng chế. Nh−ng toàn bộ thặng 
d− này lại chỉ để trả cho hàng hóa nhập 
khẩu từ các n−ớc trung tâm nh− Anh và 
Pháp, chứ không hề giúp gì cho sự hình 
thành nền sản xuất chính quốc và thuộc 
địa. ý, miền Nam n−ớc Đức và miền 
Nam n−ớc Pháp cũng rơi vào tình cảnh 
t−ơng tự. Hạn chế trong thu hút vốn từ 
ngân hàng quốc tế, chi phí sản xuất cao 
và hàng hóa chất l−ợng thấp đã khiến 
các vùng này không còn chiếm −u thế 
trong th−ơng mại quốc tế và không đ−ợc 
h−ởng lợi nh− vùng trung tâm. 
Đến thế kỷ XIX, hầu nh− tất cả khu 
vực trên trái đất đều có liên hệ với nền 
kinh tế t− bản chủ nghĩa thế giới. 
Về ph−ơng diện kinh tế, theo 
Wallerstein, nếu phải lấy những chỉ báo 
thể hiện rõ nhất tình trạng phân biệt 
giữa trung tâm và ngoại vi thì chỉ báo 
đó là, mức đầu t− về cơ sở hạ tầng, mức 
độ −u tiên các hoạt động kinh tế - xã hội 
và chất l−ợng sống của c− dân. 
10. Điều Wallerstein l−u ý và nhấn 
mạnh là, các trạng thái trung tâm hay 
ngoại vi của bất kỳ một quốc gia hoặc 
của một khu vực nào đó của thế giới, 
không phải là bất biến và không cố định 
về mặt địa lý. Điều này cũng t−ơng tự 
nh− quan niệm của các lý thuyết về dịch 
chuyển các nền văn minh. Có những 
khu vực bán ngoại vi hoạt động nh− một 
ngoại vi của trung tâm và lại là một 
trung tâm của các ngoại vi khác. Vào 
cuối thế kỷ XX, khu vực này gồm Đông 
Âu, Trung Quốc, Brazil, Mexico... ở các 
n−ớc bán ngoại vi này, vùng ngoại vi và 
vùng trung tâm cùng tồn tại trong cùng 
một vị trí (Xem: Wallerstein, 
 Theo 
Wallerstein, tình trạng bóc lột, sự bất 
công, bất bình đẳng sở dĩ có xu h−ớng 
đ−ợc duy trì là do các chính sách và 
tham vọng của mọi trung tâm là muốn 
kéo dài vĩnh cửu tình trạng kém phát 
triển và thua thiệt ở các vùng ngoại vi. 
Tuy nhiên, quy luật cạnh tranh t− bản 
chủ nghĩa, trái với mong muốn chủ 
quan của các trung tâm, lại cũng giúp 
14 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2014 
cho các vùng ngoại vi có hy vọng thay 
đổi trật tự hiện hành. Và trong sự đối 
lập khắc nghiệt về lợi ích nh− vậy, hệ 
thống thế giới hiện đại cùng với nền 
kinh tế thế giới t− bản chủ nghĩa ngày 
càng lớn mạnh. 
Một đánh giá bằng bản đồ mô tả trật tự 
trung tâm - ngoại vi toàn cầu cuối thế kỷ 
XX về hoạt động th−ơng mại và 
giao thông vận tải 
( 
ch2en/conc2en/coreperiphery.html) 
11. Nói tóm lại, theo Wallerstein, 
quan hệ trung tâm - ngoại vi với bản 
chất cạnh tranh, đối lập gay gắt của nó 
là quan hệ rất đặc tr−ng cho sự phát 
triển phức tạp của nền kinh tế thế giới 
và của hệ thống thế giới hiện đại kể từ 
thế kỷ XVI đến ngày nay. ở quan hệ 
này sẽ còn diễn ra sự dịch chuyển thứ 
hạng (trung tâm, bán ngoại vi, ngoại vi) 
không dễ dự báo giữa các quốc gia, giữa 
các bộ phận cấu thành của nó trong 
nhiều thế kỷ nữa cùng với sự phát triển 
của hệ thống thế giới hiện đại. Trung 
tâm trong mối quan hệ với các vùng 
ngoại vi có mối quan hệ phụ thuộc 
không đối xứng. Trung tâm thống trị 
ngoại vi, bóc lột ngoại vi bằng cách 
chiếm lấy các nguồn lực tự nhiên và 
nguồn lực con ng−ời của ngoại vi. Cách 
thức bóc lột vừa thô bạo vừa tinh vi. 
Ngoại vi thì luôn có xu h−ớng ly tâm 
khỏi sức hút của trung tâm, tìm mọi 
cách thay đổi trật tự hiện hữu và vừa 
công khai vừa ngấm ngầm thực hiện 
nhu cầu sống còn đó. “Toàn bộ cuộc chơi 
của các lực l−ợng chính trị thế giới phụ 
thuộc vào cuộc đấu tranh và sự đối đầu 
của nó (ngoại vi) với trung tâm” (V.E. 
Davidovich, 2002, tr.433)  
Tài liệu trích dẫn 
1. Bertalanfly’s General Systems Theory, 
tems.html 
2. Иммануэль Валлерстайн (2001), 
Анализ мировых систем 
интуациявсовременноммире, 
Перевод с английского. Изд. 
“Университетская книга” Санкт-
Петербург. 
3. Fernand Braudel (1958), Histoire et 
Sciences sociales: La longue durée, 
eca/archivio/materiale/139/seminario
%20gunderfrank/Braudel.%20Longu
e%20dur%C3%A9e.pdf 
4. Michael Burawoy, Provincializing 
the Social Sciences, 
ownload?doi=10.1.1.200.9970&rep=r
ep1&type=pdf 
5. V.E. Davidovich (2002), D−ới lăng 
kính triết học, Nxb. Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
6. Enrique Dussel (2002), “Debate on 
the Geoculture of the World-
System”. Trong sách: I. Wallerstein-
A. Clesse, The World we are entering 
2000-2050, Dutch University Press, 
The Netherlands. 
Immanuel Wallerstein 15 
03-338.pdf 
7. General Systems Theory: A Knowledge 
Domain in Engineering Systems, 
book/gst.pdf 
8. Gulbenkian Commission on the 
Restructuring of the Social Sciences, 
blications/gulbenkian.html 
9. Светлана Юрьевна Гусева (2003), 
Проблема взаимодействия культур 
центра и периферии Римской 
империи: На анализе жизни и 
творчества Луция Аннея 
Сенекитема, диссертация кандидат 
философских наук, Санкт-
Петербург. 
10. Claude Lévi-Strauss, (1962), 
L’anthropologie structurale. La 
Pense’e saugave. Plon 1962. 
https://ia600300.us.archive.org/16/it
ems/anthropologiestr00levi/anthropo
logiestr00levi.pdf 
11. Carlos A. Martínez - Vela (2001), 
World Systems Theory. 
ads/2013/08/The-Modern-World-
System.pdf 
12. K. Marx và F. Engels (2000), Toàn 
tập, tập 42, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
13. Modern History Sourcebook: Summary 
of Wallerstein on World System Theory, 
OD/Wallerstein.asp. 
14. Dr. Christoph Stadel, Core Areas 
and Peripheral regions of Canada: 
Landscapes of Contrast and 
challenger, 
l.pdf 
15. United Nations: World Systems Theory, 
nations-world-systems-theory 
16. Wallerstein CV, 
IW-cv-2013.pdf 
17. Immanuel Wallerstein (1974), The 
Modern World-System I: Capitalist 
Agriculture and the Origins of the 
European World-Economy in the 
Sixteenth Century, Academic Press, 
New York/London. 
18. Immanuel Wallerstein (1976), “A 
World-System Perspective on the 
Social Sciences”, The British Journal 
of Sociology, Vol. 27, No. 3, Special 
Isue. History and Sociology, 
mics/Faculty/jbell/wallerstein.pdf 
19. Immanuel Wallerstein (1979), The 
Capitalist World-Economy, 
Cambridge University Press. 
20. Immanuel Wallerstein (1980), The 
Modern World-System II: 
Mercantilism and the Consolidation of 
the European World-Economy, 1600-
1750, Academic Press, New York. 
21. Immanuel Wallerstein (1989), The 
Modern World-System, vol. III: The 
Second Great Expansion of the 
Capitalist World-Economy, 1730-
1840', Academic Press, San Diego. 
22. Immanuel Wallerstein (1991), 
Geopolitics and Geoculture: Essays 
on the Changing World-System, 
Cambridge University Press, 
Cambridge. 
(Xem tiếp trang 33)
Immanuel Wallerstein 1 

File đính kèm:

  • pdfimmanuel_wallerstein_voi_ly_thuyet_he_thong_the_gioi_hien_da.pdf