Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi
Lý thuyết Hệ thống thế giới hiện đại (Modern World-Systems Theory), mà trong
đó quan niệm về trung tâm và ngoại vi (Core - Peripheral Theory) đóng vai trò
là cách tiếp cận chủ yếu, khám phá những quan hệ hiện thực đã kiến tạo nên hệ
thống thế giới ngày nay, là một trong những lý thuyết khoa học xã hội đồ sộ nhất
thế kỷ XX. Người đề xuất lý thuyết này là Wallerstein, nhà xã hội học nổi tiếng
người Mỹ. (*)
Suốt từ thập niên 1970 đến nay, bằng lý thuyết của mình, Wallerstein đã có
tiếng nói ở hầu hết các sự kiện nóng của thế giới. Lý thuyết của ông trên thực tế
đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của giới khoa học và giới chính trị ở hầu
khắp các nước. Sách của Wallerstein được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng. Tên
tuổi của ông được giảng dạy ở khắp các giảng đường. Không chỉ đóng vai trò là
cách tiếp cận cho nhiều công trình nghiên cứu khoa học, lý thuyết Wallerstein
còn là phương pháp luận cho việc hoàn thiện “Khoa học Lịch sử toàn cầu”
(Universal History), trực tiếp làm cơ sở cho ủy ban Gulbenkian về tái cấu trúc
khoa học xã hội(**) và truyền cảm hứng cho một số phong trào chính trị xã hội
trên khắp thế giới. Tại các tổ chức của Liên Hợp Quốc như UNESCO, UNDP,
FAO suốt mấy chục năm qua, lý thuyết của Wallerstein thường xuyên được sử
dụng như một công cụ hữu hiệu để chống nghèo đói và giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội(***).
ở Việt Nam trước thập niên 1990, Wallerstein hầu như không được nhắc tới. Chỉ
trong những năm gần đây, các nhà kinh tế học và xã hội học mới nói tới “Hệ
thống thế giới” và các nhà nghiên cứu văn hóa - xã hội mới nói tới quan điểm
“Trung tâm - ngoại vi” của ông. Tuy thế những hiểu biết về Wallerstein thể hiện
trên sách báo thường khá giản đơn. Không mấy ai chủ tâm đi sâu vào các lý
thuyết, dù là để phê phán hay là để tiếp thu, vận dụng. Thêm vào đó, trong tiếng
Việt, thuật ngữ “Hệ thống thế giới hiện đại” lại gợi lên những hiểu biết đã có ở
Việt Nam về “Lý thuyết hệ thống” (General System Theory) của Bertalanfly(****),
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Immanuel Wallerstein với lý thuyết hệ thống thế giới hiện đại và lý thuyết trung tâm - ngoại vi
sách còn bàn đến sự tăng tr−ởng mang tính nhịp điệu theo chu kỳ, những cuộc khủng hoảng và những biến đổi thực tế của chủ nghĩa t− bản với tính cách là một hệ thống thế giới đã ngày càng làm cho hệ thống thế giới mạnh thêm, những lý do khiến nền kinh tế t− bản chủ nghĩa đích thực trở thành nền kinh tế thế giới. Cuốn sách tập hợp ý kiến của Wallerstein tại nhiều cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa giai cấp và ý thức dân tộc. 3. “Địa chính trị và địa văn hóa: các bài tiểu luận về sự biến đổi của hệ thống thế giới” (Immanuel Wallerstein, 1991) là tập tiểu luận thứ ba gồm các bài viết của Wallerstein viết từ năm 1982-1989. Những bài viết trong cuốn sách cung cấp quan điểm của Wallerstein về các sự kiện của thời kỳ này, đặc biệt là để giải thích những sự kiện đáng nhớ trong năm 1989. Wallerstein cho rằng sự Immanuel Wallerstein 11 sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa và sự suy giảm bá quyền của Mỹ trong hệ thống thế giới tính đến năm 1989 là có cùng một nguyên nhân. Đó là suy giảm mang tính chu kỳ của nền kinh tế thế giới. Theo Wallerstein, ng−ời ta sẽ không thể hiểu đ−ợc sự sụp đổ của hệ thống cộng sản, sự hợp nhất châu Âu và sự suy yếu t−ơng đối của Mỹ nếu không tính đến sự suy giảm mang tính chu kỳ của nền kinh tế thế giới trong hệ thống thế giới. 4. Khi phân tích sự phát triển của văn hóa trong xu thế thách thức đối với sự thống trị của quan điểm địa văn hóa, Wallerstein đã nêu những quan điểm mới của mình về văn hóa. Những ý t−ởng của ông khá độc đáo và đã gây tranh cãi suốt từ ngày đó đến nay tại tất cả các ngành khoa học xã hội. Trong cuốn sách và sau đó là tại các diễn đàn, bằng nhiều cách khác nhau Wallerstein khẳng định (Xem: Enrique Dussel, 2002, p.239-246): - Không có địa văn hóa trong ba thế kỷ đầu tiên của hệ thống thế giới, tức là trong thời kỳ tr−ớc Cách mạng t− sản Pháp 1789. - Với cuộc Cách mạng Pháp, địa văn hóa xuất hiện nh− một sự đối lập căng thẳng giữa ba hệ t− t−ởng - Chủ nghĩa bảo thủ (Hữu), Chủ nghĩa tự do (Trung tâm) và Chủ nghĩa xã hội (Tả). - Chủ nghĩa tự do (Liberalism) là ý thức hệ hiện hữu trong suốt hai thế kỷ từ năm 1789-1989. Tuy nhiên, nó sụp đổ cùng một lúc với chủ nghĩa xã hội hiện thực vào năm 1989. - Chủ nghĩa bá quyền Mỹ, cùng với “thời kỳ hiện đại” (Modern Age) của lịch sử bắt đầu từ 500 năm tr−ớc, đã đến giai đoạn kết thúc. Một “thời kỳ mới” xuất hiện, đó là “thời kỳ hỗn loạn mới” (New chaos Age), một “thời kỳ đen tối” (Dark Age) sẽ tiếp tục cho đến khi một hệ thống văn minh mới đ−ợc thành lập từ năm 2025-2050. 5. Các khái niệm trung tâm - ngoại vi, theo Wallerstein, gắn liền với mô hình của kiểu quan hệ thống trị trong thế giới hiện đại dựa trên sự phân bổ không công bằng về các nguồn lực trong nền kinh tế và thể hiện qua các thể chế đ−ợc định đoạt ở các quốc gia trung tâm. Trung tâm giữ địa vị thống trị, chi phối và quyết định, trong khi các vùng ngoại vi có xu h−ớng bị cô lập, bị lệ thuộc và chịu thiệt thòi. Hội chứng thống trị - phụ thuộc này tác động mạnh mẽ vào cơ cấu kinh tế và trao đổi, cũng nh− phân bổ các nguồn lực. Trong sự phát triển của các không gian kinh tế, mức độ t−ơng phản và đối lập giữa trung tâm - ngoại vi đ−ợc thể hiện rõ nhất khi trung tâm xác lập đ−ợc địa vị thống trị của mình. Đó cũng là lúc “trạng thái cân bằng” giữa các vùng kinh tế đ−ợc th−ờng xuyên tuyên truyền nh− một mục tiêu của chính sách phát triển của các quốc gia. Dĩ nhiên, các trung tâm quyền lực về chính trị và th−ơng mại không phải lúc nào cũng giả dối trong sự tuyên truyền này. Tuy vậy, nhiều hạn chế và rào cản đã làm giảm sự thành công của những mục tiêu dân túy đó. Sức mạnh quán tính của trung tâm truyền thống, tham vọng và sự năng động của những trung tâm mới nổi, th−ờng có xu h−ớng cản trở hoặc ngăn chặn một trạng thái cân bằng giữa các khu vực kinh tế - xã hội trong sự phát triển (Xem: Dr. Christoph Stadel, Sự thu hút h−ớng tâm của các vùng trung tâm trong lịch sử đã gây nên các làn sóng di c− trong n−ớc và quốc tế, 12 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2014 làm mạnh thêm dòng chảy tài chính và th−ơng mại từ ngoại vi vào trung tâm. Hơn nữa, chính sách kinh tế ở cấp khu vực hoặc quốc gia th−ờng −u tiên cho các lợi ích của các vùng trung tâm. Mật độ dân số, số l−ợng các đơn vị bầu cử và số l−ợng các đại diện chính trị, khi quan hệ trung tâm - ngoại vi đ−ợc mở rộng, cũng làm tăng thêm tình trạng mất cân đối cao giữa các khu vực (Xem: Гусева, Светлана Юрьевна, 2003). Mô hình diễn tả sự chuyển dịch giữa trung tâm và ngoại vi trong một tài liệu của Liên Hợp Quốc (United Nations, 6. Do đó, khu vực trung tâm trở thành “Trung tâm của sự tích lũy - Centers of Accumulation” ngày càng lớn, làm duy trì và sâu sắc thêm sự phát triển không đồng đều. Việc khai thác mạnh mẽ các nguồn tài nguyên và tạo ra các cơ hội kinh tế mới, kết hợp với chính sách khuyến khích các vùng trung tâm, đã kích thích sự xuất hiện của những trung tâm mới. Điều này thách thức quan điểm cho rằng trật tự địa kinh tế có xu h−ớng là không gian tĩnh và ít biến đổi. Trật tự địa kinh tế, trên thực tế và đặc biệt rõ trong thế giới hiện đại, đ−ợc hỗ trợ bởi sự di động của các nguồn lực, dòng chu chuyển th−ơng mại và dòng chảy của lực l−ợng lao động. Sức mạnh kinh tế và quyền lực chính trị, do vậy, ít xuất phát từ yếu tố địa lý đơn thuần, mà là từ quy luật của sự kiểm soát các công cụ sản xuất (Xem: Maurice Yeates, 1998, p.116). 7. ở phạm vi quốc gia, trung tâm gồm những vùng thịnh v−ợng và phát triển nhất của một quốc gia, th−ờng là các thành phố lớn, thủ đô, cảng chính, các khu đô thị và công nghiệp lớn Vùng trung tâm đ−ợc h−ởng lợi nhiều nhất từ hệ thống kinh tế thế giới t− bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn hệ thống thế giới xuất hiện vào thế kỷ XV-XVI, phần lớn phía Tây Bắc châu Âu nh− Anh, Pháp, Hà Lan đã phát triển nh− khu vực trung tâm đầu tiên. Nền chính trị của các quốc gia này cũng phát triển mạnh bởi chính phủ trung −ơng có bộ máy quan liêu rộng rãi, có đội quân lính đánh thuê hùng hậu. Giai cấp t− sản địa ph−ơng của trung tâm nắm quyền kiểm soát th−ơng mại và chiết khấu thặng d− th−ơng mại quốc tế phục vụ cho lợi ích riêng của họ. Dân số nông thôn cũng đ−ợc tăng thêm nhờ số l−ợng những ng−ời không có ruộng đất nh−ng làm công ăn l−ơng tại các trang trại và làm thuê ở nông thôn. Việc chuyển đổi từ nghĩa vụ kiểu nhà n−ớc phong kiến sang t− bản đã khuyến khích sự nổi lên của những ng−ời nông dân độc lập hoặc tiểu chủ nông thôn mới. Còn những nông dân nghèo thì di chuyển đến các thành phố, cung cấp lao động giá rẻ cho dịch vụ và sản xuất ở đô thị. Sản xuất nông nghiệp thời kỳ tích lũy t− bản tăng tr−ởng với −u thế ngày càng lớn của ng−ời nông dân th−ơng mại trong các ngành sản xuất, chăn nuôi gia súc và công nghệ nông nghiệp. Immanuel Wallerstein 13 8. Đối diện với trung tâm là các vùng ngoại vi. Các khu vực ngoại vi của hệ thống kinh tế thế giới thiếu các chính phủ trung −ơng mạnh hoặc bị kiểm soát bởi các quốc gia khác, các tiểu bang khác. Xuất khẩu nguyên liệu thô vào trung tâm và tham gia guồng máy lao động bị c−ỡng chế là một thực tế có ở khắp mọi vùng ngoại vi. Trung tâm chiếm đoạt thặng d− của các ngoại vi bằng quan hệ th−ơng mại bất bình đẳng. Hai khu vực Đông Âu, đặc biệt là Ba Lan và Mỹ Latinh, thể hiện rõ đặc điểm của các khu vực ngoại vi. ở Ba Lan, vua bị mất quyền lực vào tay giai cấp quý tộc và Ba Lan đã trở thành nơi xuất khẩu lúa mì hàng đầu vào toàn bộ châu Âu hồi thế kỷ XVII-XVIII. 9. Bán ngoại vi chiếm một vị trí trung gian giữa trung tâm và ngoại vi. Các quốc gia bán ngoại vi có thể di chuyển đến một cấp độ cao hơn hoặc thấp hơn trong xu thế muốn thoát khỏi địa vị ngoại vi. Các khu vực bán ngoại vi th−ờng hình thành bằng cách đại diện cho một vùng trung tâm bị suy giảm hoặc từ một vùng ngoại vi cố gắng cải thiện vị trí t−ơng đối của mình trong hệ thống kinh tế thế giới. Bán ngoại vi là vùng đệm giữa trung tâm và ngoại vi. Thời kỳ đầu, thế kỷ XV-XVI, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những trung tâm kinh tế suy giảm và trở thành bán ngoại vi. Các n−ớc thực dân này nhập khẩu vàng và bạc từ các thuộc địa của mình ở Mỹ Latinh, chủ yếu bằng lao động c−ỡng chế. Nh−ng toàn bộ thặng d− này lại chỉ để trả cho hàng hóa nhập khẩu từ các n−ớc trung tâm nh− Anh và Pháp, chứ không hề giúp gì cho sự hình thành nền sản xuất chính quốc và thuộc địa. ý, miền Nam n−ớc Đức và miền Nam n−ớc Pháp cũng rơi vào tình cảnh t−ơng tự. Hạn chế trong thu hút vốn từ ngân hàng quốc tế, chi phí sản xuất cao và hàng hóa chất l−ợng thấp đã khiến các vùng này không còn chiếm −u thế trong th−ơng mại quốc tế và không đ−ợc h−ởng lợi nh− vùng trung tâm. Đến thế kỷ XIX, hầu nh− tất cả khu vực trên trái đất đều có liên hệ với nền kinh tế t− bản chủ nghĩa thế giới. Về ph−ơng diện kinh tế, theo Wallerstein, nếu phải lấy những chỉ báo thể hiện rõ nhất tình trạng phân biệt giữa trung tâm và ngoại vi thì chỉ báo đó là, mức đầu t− về cơ sở hạ tầng, mức độ −u tiên các hoạt động kinh tế - xã hội và chất l−ợng sống của c− dân. 10. Điều Wallerstein l−u ý và nhấn mạnh là, các trạng thái trung tâm hay ngoại vi của bất kỳ một quốc gia hoặc của một khu vực nào đó của thế giới, không phải là bất biến và không cố định về mặt địa lý. Điều này cũng t−ơng tự nh− quan niệm của các lý thuyết về dịch chuyển các nền văn minh. Có những khu vực bán ngoại vi hoạt động nh− một ngoại vi của trung tâm và lại là một trung tâm của các ngoại vi khác. Vào cuối thế kỷ XX, khu vực này gồm Đông Âu, Trung Quốc, Brazil, Mexico... ở các n−ớc bán ngoại vi này, vùng ngoại vi và vùng trung tâm cùng tồn tại trong cùng một vị trí (Xem: Wallerstein, Theo Wallerstein, tình trạng bóc lột, sự bất công, bất bình đẳng sở dĩ có xu h−ớng đ−ợc duy trì là do các chính sách và tham vọng của mọi trung tâm là muốn kéo dài vĩnh cửu tình trạng kém phát triển và thua thiệt ở các vùng ngoại vi. Tuy nhiên, quy luật cạnh tranh t− bản chủ nghĩa, trái với mong muốn chủ quan của các trung tâm, lại cũng giúp 14 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2014 cho các vùng ngoại vi có hy vọng thay đổi trật tự hiện hành. Và trong sự đối lập khắc nghiệt về lợi ích nh− vậy, hệ thống thế giới hiện đại cùng với nền kinh tế thế giới t− bản chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh. Một đánh giá bằng bản đồ mô tả trật tự trung tâm - ngoại vi toàn cầu cuối thế kỷ XX về hoạt động th−ơng mại và giao thông vận tải ( ch2en/conc2en/coreperiphery.html) 11. Nói tóm lại, theo Wallerstein, quan hệ trung tâm - ngoại vi với bản chất cạnh tranh, đối lập gay gắt của nó là quan hệ rất đặc tr−ng cho sự phát triển phức tạp của nền kinh tế thế giới và của hệ thống thế giới hiện đại kể từ thế kỷ XVI đến ngày nay. ở quan hệ này sẽ còn diễn ra sự dịch chuyển thứ hạng (trung tâm, bán ngoại vi, ngoại vi) không dễ dự báo giữa các quốc gia, giữa các bộ phận cấu thành của nó trong nhiều thế kỷ nữa cùng với sự phát triển của hệ thống thế giới hiện đại. Trung tâm trong mối quan hệ với các vùng ngoại vi có mối quan hệ phụ thuộc không đối xứng. Trung tâm thống trị ngoại vi, bóc lột ngoại vi bằng cách chiếm lấy các nguồn lực tự nhiên và nguồn lực con ng−ời của ngoại vi. Cách thức bóc lột vừa thô bạo vừa tinh vi. Ngoại vi thì luôn có xu h−ớng ly tâm khỏi sức hút của trung tâm, tìm mọi cách thay đổi trật tự hiện hữu và vừa công khai vừa ngấm ngầm thực hiện nhu cầu sống còn đó. “Toàn bộ cuộc chơi của các lực l−ợng chính trị thế giới phụ thuộc vào cuộc đấu tranh và sự đối đầu của nó (ngoại vi) với trung tâm” (V.E. Davidovich, 2002, tr.433) Tài liệu trích dẫn 1. Bertalanfly’s General Systems Theory, tems.html 2. Иммануэль Валлерстайн (2001), Анализ мировых систем интуациявсовременноммире, Перевод с английского. Изд. “Университетская книга” Санкт- Петербург. 3. Fernand Braudel (1958), Histoire et Sciences sociales: La longue durée, eca/archivio/materiale/139/seminario %20gunderfrank/Braudel.%20Longu e%20dur%C3%A9e.pdf 4. Michael Burawoy, Provincializing the Social Sciences, ownload?doi=10.1.1.200.9970&rep=r ep1&type=pdf 5. V.E. Davidovich (2002), D−ới lăng kính triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Enrique Dussel (2002), “Debate on the Geoculture of the World- System”. Trong sách: I. Wallerstein- A. Clesse, The World we are entering 2000-2050, Dutch University Press, The Netherlands. Immanuel Wallerstein 15 03-338.pdf 7. General Systems Theory: A Knowledge Domain in Engineering Systems, book/gst.pdf 8. Gulbenkian Commission on the Restructuring of the Social Sciences, blications/gulbenkian.html 9. Светлана Юрьевна Гусева (2003), Проблема взаимодействия культур центра и периферии Римской империи: На анализе жизни и творчества Луция Аннея Сенекитема, диссертация кандидат философских наук, Санкт- Петербург. 10. Claude Lévi-Strauss, (1962), L’anthropologie structurale. La Pense’e saugave. Plon 1962. https://ia600300.us.archive.org/16/it ems/anthropologiestr00levi/anthropo logiestr00levi.pdf 11. Carlos A. Martínez - Vela (2001), World Systems Theory. ads/2013/08/The-Modern-World- System.pdf 12. K. Marx và F. Engels (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Modern History Sourcebook: Summary of Wallerstein on World System Theory, OD/Wallerstein.asp. 14. Dr. Christoph Stadel, Core Areas and Peripheral regions of Canada: Landscapes of Contrast and challenger, l.pdf 15. United Nations: World Systems Theory, nations-world-systems-theory 16. Wallerstein CV, IW-cv-2013.pdf 17. Immanuel Wallerstein (1974), The Modern World-System I: Capitalist Agriculture and the Origins of the European World-Economy in the Sixteenth Century, Academic Press, New York/London. 18. Immanuel Wallerstein (1976), “A World-System Perspective on the Social Sciences”, The British Journal of Sociology, Vol. 27, No. 3, Special Isue. History and Sociology, mics/Faculty/jbell/wallerstein.pdf 19. Immanuel Wallerstein (1979), The Capitalist World-Economy, Cambridge University Press. 20. Immanuel Wallerstein (1980), The Modern World-System II: Mercantilism and the Consolidation of the European World-Economy, 1600- 1750, Academic Press, New York. 21. Immanuel Wallerstein (1989), The Modern World-System, vol. III: The Second Great Expansion of the Capitalist World-Economy, 1730- 1840', Academic Press, San Diego. 22. Immanuel Wallerstein (1991), Geopolitics and Geoculture: Essays on the Changing World-System, Cambridge University Press, Cambridge. (Xem tiếp trang 33) Immanuel Wallerstein 1
File đính kèm:
- immanuel_wallerstein_voi_ly_thuyet_he_thong_the_gioi_hien_da.pdf