Hướng tới hệ thống quản lý hiện đại để tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi trong thời đại kinh tế số
Sau hơn 10 thực hiện, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào các năm 2012, 2014 và 2016. Mặc dù vậy, việc sửa đổi, bổ sung chỉ giải quyết kịp thời những vấn đề cấp bách mà thực tiễn quản lý đặt ra, chưa giải quyết toàn diện và có hệ thống các vấn đề của quản lý thuế trong bối cảnh kinh tế - Xã hội đã có nhiều thay đổi căn bản tác động đến quản lý thuế. Điều này đặt ra đòi hỏi tất yếu phải nghiên cứu ban hành Luật Quản lý thuế sửa đổi. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV đã thảo luận và cho ý kiến về Dự án Luật Quản lý thuế sửa đổi (Sau đây gọi tắt là Dự án Luật). Trên cơ sở ý kiến góp ý của các vị Đại biểu quốc hội, Ban Soạn thảo Dự án Luật đang hoàn thiện để trình Quốc hội xem xét thông qua Dự án Luật này vào kỳ họp thứ 7 tới đây. Bài viết này sẽ tóm lược những điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng đã được Ban Soạn thảo Dự án Luật đề xuất và thảo luận về cơ sở lý luận và thực tiễn của những đề xuất đó. Đồng thời, bàn luận một số nội dung cần tiếp tục hoàn thiện trong Dự án Luật để hướng đến một hệ thống quản lý thuế hiện đại, hiệu quả, minh bạch, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi trong điều kiện nền kinh tế số
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng tới hệ thống quản lý hiện đại để tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi trong thời đại kinh tế số
thuế khi đề nghị hoàn thuế thu nhập cá nhân vì khi đó người nộp thuế đã có điều kiện tổng hợp đúng thu nhập và thu thập đầy đủ chứng từ khấu trừ thuế. Thứ tư, bổ sung quy định người nộp thuế được khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền đã công bố kết luận thanh tra, kiểm tra thuế nhưng việc xử lý số thuế khai bổ sung như đối với trường hợp cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra phát hiện. Việc bổ sung quy định này giúp giải quyết thấu đáo những trường hợp sai sót không được phát hiện qua thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế nhưng người nộp thuế tự phát hiện sau đó; qua đó, giảm thiểu rủi ro phát sinh số tiền chậm nộp quá lớn và giúp người nộp thuế kê khai thuế đúng với thực tế kinh doanh của mình. Thứ năm, mở rộng quyền của đại lý thuế được làm dịch vụ kế toán thuế cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Điều này sẽ đáp ứng yêu cầu, tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ vì phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ hiện nay phải sử dụng dịch vụ kế toán và đại lý thuế. Trong khi đó, theo quy định hiện hành, đại lý thuế chỉ được làm dịch vụ thủ tục về thuế, không được làm dịch vụ kế toán cho doanh nghiệp. Như vậy, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ không thể tiết kiệm chi phí bằng cách thuê trọn gói dịch vụ kế toán và dịch vụ làm thủ tục về thuế của một doanh nghiệp, mà phải thuê 2 doanh nghiệp để làm 2 loại dịch vụ, trừ khi đó là doanh nghiệp dịch vụ kế toán có đủ điều kiện để cung cấp cả hai loại dịch vụ đó. Việc đại lý thuế không được cung cấp dịch vụ kế toán chính là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho số lượng đại lý thuế trong toàn quốc rất ít, chỉ ở mức trên 300 doanh nghiệp, trong khi có hàng trăm ngàn doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đang hoạt động, nhu cầu về đại lý thuế và dịch vụ kế toán rất lớn trong nền kinh tế. Về kỹ thuật nghiệp vụ thì việc khai thuế phải căn cứ vào báo cáo tài chính và sổ sách kế toán. Yêu cầu về kế toán đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ không quá phức tạp. Trong khi đó, kế toán là một trong những môn thi để cấp chứng chỉ hành nghề đại lý thuế. Vì lẽ đó, việc mở rộng quyền đại lý thuế được cung cấp dịch vụ kế toán cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ là phù hợp thực tiễn khách quan. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân có liên quan khi đại lý thuế được cung cấp dịch vụ kế toán thì cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về nội dung các môn thi cấp chứng chỉ đại lý thuế cho phù hợp. Thứ sáu, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế, Dự án Luật đã bổ sung quy định về khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp. Theo đó, đối với các đối tượng người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự; người nộp thuế bỏ địa chỉ kinh doanh, doanh nghiệp chờ giải thể, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, cơ quan đăng ký kinh doanh đã thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì được khoanh nợ thuế. Quy định như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn quản lý thuế, khi mà số nợ tính theo tiền chậm nộp cao, dẫn đến nợ đọng thuế lớn nhưng lại là nợ ảo, không có khả năng thu hồi, gây ra áp lực không cần thiết về nhân lực, chi phí quản lý và gia tăng khối lượng công việc quản lý của cơ quan thuế đối với số nợ ảo này. Thứ bảy, bổ sung quy định về hóa đơn điện tử, tạo thêm nền tảng pháp lý vững chắc cho quản lý thuế hiện đại trong bối cảnh quản lý thuế ở nền kinh tế số. Theo đó, với việc mở rộng áp dụng hóa đơn điện tử vừa giúp giảm thiểu chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp, vừa giúp cơ quan thuế kiểm soát có hiệu quả và kịp thời các giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thực tế, cùng với việc bổ sung quy định về hóa đơn điện tử vào Luật Quản lý thuế thì Chính phủ đã ban hành Nghị định 10 Luaät Quaûn LYÙ thueá söûa ñoåi - nhöõng ÑIEÀU CAÀn TRAO ÑOÅI ThEÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 137 - tháng 3/2019 119/2018/NĐ-CP về hóa đơn điện tử. Với việc bổ sung quy định về hóa đơn điện tử vào Luật Quản lý thuế sẽ đảm bảo tính đồng bộ và nâng cao tính pháp lý của hóa đơn điện tử. Thứ tám, Dự án Luật đã bổ sung một số nguyên tắc về quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết nhằm luật hóa các quy định về kiểm soát chuyển giá đã được quy định tại Nghị định 20/2017/NĐ-CP của Chính phủ. Thứ chín, để thực sự thúc đẩy giao dịch điện tử trong quản lý thuế nói chung và thương mại điện tử nói riêng, đồng thời vừa tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của người nộp thuế, vừa đảm bảo phòng chống thất thu thuế từ hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, Dự án Luật đã bổ sung những quy định liên quan đến quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử theo các hướng chủ yếu sau: Xây dựng cơ sở dữ liệu và triển khai rộng rãi các dịch vụ thuế điện tử (khai thuế điện tử, hoá đơn điện tử, nộp thuế online); bổ sung quy định trách nhiệm của các Bộ, ngành, các tổ chức, đơn vị liên quan đến hoạt động kinh doanh thương mại điện tử của các tổ chức, cá nhân với cơ quan thuế (trách nhiệm của Bộ Công thương và Bộ Thông tin và Truyền thông về kết nối và cung cấp thông tin để quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử; trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong thiết lập hệ thống thanh toán thương mại điện tử quốc gia và thiết lập hệ thống giám sát các giao dịch thanh toán thương mại điện tử xuyên quốc gia; trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong khấu trừ thuế đối với các giao dịch thương mại điện tử...). 2. Một số đề xuất hoàn thiện Dự án Luật nhằm hướng tới hệ thống quản lý thuế hiện đại, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi trong bối cảnh nền kinh tế số 2.1. Bổ sung một số quy định để đảm bảo tính minh bạch của quản lý thuế Tính minh bạch là một trong những yêu cầu cơ bản của một hệ thống thuế. Hệ thống thuế càng minh bạch thì càng thuận lợi cho việc tổ chức thực thi, giảm cơ hội tham nhũng và giảm chi phí tuân thủ thuế. Quá trình cải cách thuế gắn với quá trình cải cách và hội nhập quốc tế những năm qua đã chứng kiến hệ thống thuế Việt Nam nói chung và các quy định về quản lý thuế nói riêng ngày càng minh bạch hơn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và đông đảo người nộp thuế ghi nhận. Tuy vậy, cùng với những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội và đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước, vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số quy định để nâng cao tính minh bạch của quản lý thuế. Cụ thể như sau: Một là, nên bổ sung thêm “Tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế” vào Điều 4 của Dự án Luật quy định về “Nội dung quản lý thuế” vì đây là một chức năng quan trọng của quản lý thuế, là trách nhiệm của cơ quan thuế đối với người nộp thuế là quyền của người nộp thuế. Cùng với đó, nên bổ sung thêm một chương quy định về “Tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế của cơ quan thuế”. Chương này sẽ quy định những nguyên tắc, yêu cầu, nội dung tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế của cơ quan thuế; quy định trách nhiệm của cơ quan thuế trong tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế; quy định các thủ tục và thời hạn hỗ trợ người nộp thuế. Chẳng hạn như: Thủ tục tiếp nhận và trả lời vướng mắc của người nộp thuế; thời hạn trả lời vướng mắc của người nộp thuế; thủ tục hướng dẫn, hỗ trợ người nộp thuế... Cần thiết phải bổ sung nội dung này vì đây là một chức năng quan trọng của quản lý thuế. Việc quy định rõ như vậy trong Luật Quản lý thuế thể hiện rõ trách nhiệm của cơ quan thuế với người nộp thuế; tạo nền tảng pháp lý minh bạch với mọi hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế. Tại Khoản 1 Điều 7 của Dự án Luật cũng quy định quyền của người nộp thuế là “Được hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế” và tại Khoản 2 Điều 9 của Dự án luật cũng quy định cơ quan thuế có trách nhiệm “Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật thuế”. Tuy nhiên, để người nộp thuế được hưởng quyền này và cơ quan thuế thực hiện trách nhiệm này, cần có quy định cụ thể như đã nêu trên. Hai là, để tương thích với quy định về quyền “Được hỗ trợ” của người nộp thuế thì nên bổ sung vào Khoản 2 Điều 9 Dự án Luật về trách nhiệm “Hỗ trợ người nộp thuế thực hiện việc tính thuế, nộp thuế” của cơ quan thuế. 11NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 137 - tháng 3/2019 2.2. Hoàn thiện các quy định về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử và các hoạt động kinh tế số và các giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới Trong Dự án Luật mà Bộ Tài chính đệ trình Quốc hội xem xét đã bổ sung một số nội dung quan trọng về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử như đã phân tích trên. Tuy vậy, vẫn còn một số vấn đề cần bổ sung vào Dự án Luật nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ hơn cho quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử và các hoạt động kinh tế số. Cụ thể như sau: Một là, cần bổ sung quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện các thủ tục đăng ký, kê khai hoạt động kinh doanh thương mại điện tử; trách nhiệm phải thực hiện các biện pháp giám sát của cơ quan thuế về giao dịch điện tử của các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử. Hai là, bổ sung vào Điều 8 “Nghĩa vụ của người nộp thuế” trong Dự án Luật một nghĩa vụ của người nộp thuế là “Lắp đặt thiết bị giám sát giao dịch điện tử theo yêu cầu của cơ quan thuế”. Ba là, bổ sung quy định về các thủ tục đặc biệt áp dụng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về thuế đối với các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Bốn là, cần bổ sung quy định về nguyên tắc xác định trách nhiệm kê khai, nộp thuế đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam hoặc tạo ra giá trị tại Việt Nam thông qua các hoạt động kinh tế số và các giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới. 2.3. Hoàn thiện quy định về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết nhằm ngăn ngừa có hiệu quả hành vi chuyển giá Chuyển giá và kiểm soát chuyển giá là một trong những vấn đề nổi cộm trong quản lý thuế không chỉ của Việt Nam mà của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những vấn đề về kiểm soát chuyển giá đối với các giao dịch liên kết của các tập đoàn đa quốc gia. Trước khi đưa vào Dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi) thì các quy định về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết của Việt Nam mới ở cấp độ pháp lý cao nhất là Nghị định của Chính phủ. Việc đưa vào Dự án Luật nội dung này là rất cần thiết nhằm nâng cao tính pháp lý trong quản lý thuế đối với giao dịch liên kết, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác đấu tranh phòng ngừa chuyển giá. 12 Luaät Quaûn LYÙ thueá söûa ñoåi - nhöõng ÑIEÀU CAÀn TRAO ÑOÅI ThEÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 137 - tháng 3/2019 Trong Điều 42 của Dự án Luật về “Nguyên tắc khai thuế và tính thuế” đã bổ sung một khoản quy định về nguyên tắc kê khai, xác định giá tính thuế đối với giao dịch liên kết. Một số phần khác của Dự án Luật đã có quy định về các nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế trong kê khai thuế đối với giao dịch liên kết. Tuy vậy, các nội dung đó trong Dự án Luật chưa quy định bao quát hết những vấn đề cốt yếu của quản lý thuế đối với giao dịch liên kết và một số vấn đề thực tiễn phát sinh chưa tính đến đầy đủ khi xác định nội dung quy định pháp luật về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết. Vì lẽ đó, cần xem xét bổ sung một số nội dung sau vào Dự án Luật: Một là, cần bổ sung vào Dự án Luật một chương về “Quản lý thuế đối với giao dịch liên kết”. Trong chương này, cần có các điều khoản quy định những nội dung cơ bản nhất về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết, đó là: Đối tượng chịu sự điều chỉnh của quy định pháp luật về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết; nguyên tắc định giá chuyển giao khi doanh nghiệp có giao dịch liên kết; các phương pháp định giá theo nguyên tắc giao dịch độc lập, nguyên tắc kê khai, xác định giá giao dịch liên kết. Các nội dung này có thể kế thừa những nội dung cơ bản của Nghị định 20/2017/NĐ-CP nhưng cũng cần sửa đổi, bổ sung thêm cho phù hợp như sẽ phân tích dưới đây. Hai là, cần bổ sung đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết, không chỉ giao dịch giữa các doanh nghiệp liên kết mà cả giao dịch giữa doanh nghiệp với cá nhân có mối quan hệ liên kết cũng thuộc phạm vi áp dụng của quản lý thuế đối với giao dịch liên kết. Bổ sung quy định này là nhằm góp phần hạn chế các hành vi chuyển giá nhằm giảm nghĩa vụ thuế thông qua các giao dịch liên kết giữa doanh nghiệp với cá nhân. Ba là, cần mở rộng phạm vi áp dụng đối với với các giao dịch liên kết không chỉ đối với thuế thu nhập doanh nghiệp mà cần áp dụng đối với cả thuế tiêu thụ đặc biệt để thống nhất các định nghĩa và quy định về xác định giá tính thuế giữa các sắc thuế trong một hệ thống thuế khi việc xác định giá giao dịch có liên quan đến cả thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập doanh nghiệp (do thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế tiêu dùng một giai đoạn và lại là sắc thuế có thuế suất cao nên khả năng chuyển giá nhằm tránh thuế cũng tương tự như đối với thuế thu nhập doanh nghiệp khi có chênh lệch thuế suất và ưu đãi thuế). Bốn là, cần quy định rõ những trường hợp nào là giao dịch liên kết đặc thù phải áp dụng các quy định đặc biệt về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết để tránh gây tranh cãi trong tổ chức thực hiện. kết luận Dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đang được Ban soạn thảo tiếp tục hoàn thiện để trình Quốc hội khóa XIV xem xét thông qua trong kỳ họp thứ 7 tới đây. Về cơ bản, Dự án Luật đã đáp ứng tốt các yêu cầu của quản lý thuế trong điều kiện mới, khắc phục những bất cập của Luật Quản lý thuế hiện hành, đáp ứng các yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước và các điều kiện hội nhập mới của nền kinh tế. Tuy vậy, cần bổ sung vào Dự án Luật một số nội dung để thực sự tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc cho hệ thống quản lý thuế hiện đại, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi trong bối cảnh nền kinh tế số. Trong đó, một số nội dung cần đặc biệt quan tâm hoàn thiện là tính minh bạch của các quy định về quản lý thuế, các quy định về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết và quản lý thuế trong điều kiện nền kinh tế số với các giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính (2018), Tờ trình Chính phủ về Dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi); 2. Bộ Tài chính (2018), Dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi); 3. Lê Xuân Trường và cộng sự (2018), Nghiên cứu những khía cạnh pháp lý của việc triển khai hiệu quả Chương trình chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện, Học viện Tài chính; 4. Lê Xuân Trường (2018), “Chuyển giá: Những vấn đề đặt ra trong quản lý thuế hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Kiểm toán nhà nước, 7/2018.
File đính kèm:
- huong_toi_he_thong_quan_ly_hien_dai_de_tao_moi_truong_dau_tu.pdf