Hùng Vương trong tâm thức người Việt

Truyền thuyết về thời đại Hùng Vương, thời đại mở đầu cho lịch sử dựng nước

của dân tộc Việt Nam, gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước

Văn Lang trên cơ sở nền Văn hóa Đông Sơn luôn có một vị trí hết sức đặc biệt

trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. Vì vậy, việc làm sáng tỏ các vấn đề

tồn nghi theo c c c ch tiếp cận h c nhau như văn hóa d n gian, sử h c ha

 h o c h c về thời đại Hùng Vương hông chỉ góp phần làm sâu sắc hơn

những giá trị lịch sử, văn hóa Việt Nam mà còn hơi dậy niềm tự hào dân tộc

cho thế hệ trẻ hôm nay.

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 1

Trang 1

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 2

Trang 2

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 3

Trang 3

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 4

Trang 4

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 5

Trang 5

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 6

Trang 6

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 7

Trang 7

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 8

Trang 8

Hùng Vương trong tâm thức người Việt trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 1860
Bạn đang xem tài liệu "Hùng Vương trong tâm thức người Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hùng Vương trong tâm thức người Việt

Hùng Vương trong tâm thức người Việt
ều 
đình là Quốc sử quán đã tổ chức biên 
soạn một bộ sử lớn, mang tính chất 
“quốc sử” là Kh m định Việt sử thông 
gi m cương mục 52 quyển gồm phần 
Tiền biên (5 quyển) và Chính biên (47 
quyển). Trong phần Tiền biên, các tác 
giả Quốc sử quán triều Nguyễn đã 
biên chép kỹ hơn các tác phẩm trƣớc 
đó về thời kỳ Hùng Vƣơng. 
Dù đã đƣa vào lịch sử, nhƣng về thời 
kỳ của Nhà nƣớc Văn Lang, thời kỳ 
các vua Hùng vẫn còn tồn nghi nhiều 
câu hỏi, nhiều vấn đề mà các tập 
truyện truyền kỳ dân gian nhƣ Việt 
điện u linh, Lĩnh Nam chích qu i chƣa 
thể giải đáp, kể cả các công trình sử 
học nhƣ Việt sử lược, Đại Việt sử ký 
toàn thư, Kh m định Việt sử thông 
gi m cương mục. Chính Ngô Sĩ Liên, 
ngƣời khởi đầu và viết chính cuốn Đại 
Việt sử ý toàn thư, từng nêu: “Đời 
Hùng Vƣơng, đặt chƣ hầu làm phên 
giậu, chia nƣớc làm 15 bộ, ở 15 bộ ấy 
đều có trƣởng và tá, Các con thứ cứ 
theo thứ tự chia nhau để trị. Cái thuyết 
nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu 
không phải là thế? Vì là mẹ làm quân 
trƣởng, các con đều làm chủ một 
phƣơng. Cứ xem nhƣ tù trƣởng Man 
ngày nay, xƣng là nam phụ đạo, nữ 
phụ đạo. Còn nhƣ việc Sơn Tinh, 
Thủy Tinh thì rất là quái đản, tin sách 
chẳng bằng không có sách hãy tạm 
thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự 
nghi ngờ thôi” (Ngô Sĩ Liên và các sử 
thần triều Lê, tập 1, 1972: 63). 
“Sự nghi ngờ” ấy tồn tại mãi đến vài 
trăm năm sau. Vào nửa đầu thế kỷ XX, 
nhà sử học Trần Trọng Kim, trong Việt 
Nam sử lược viết về đời thƣợng cổ 
còn cho rằng: “Chẳng qua nhà làm sử 
cũng nhặt nhạnh những chuyện 
hoang đƣờng tục truyền lại, làm nên 
những truyện ấy toàn là truyện có 
thần tiên, quỷ quái, trái với lẽ tự nhiên 
cả” (Trần Trọng Kim, 1999: 27). 
Nhƣ vậy, có thể nói, nếu chỉ dựa vào 
các truyền thuyết dân gian và một số 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
39 
sách sử đƣợc biên soạn khoảng đầu 
thế kỷ XX, việc tìm hiểu kỹ về lịch sử 
các nhà nƣớc đầu tiên trên đất nƣớc 
ta, trong đó có Nhà nƣớc Văn Lang và 
thời kỳ các vua Hùng gặp nhiều khó 
khăn. Khó khăn ấy chỉ có thể vƣợt 
qua khi các nhà nghiên cứu khoa học 
xã hội, trƣớc hết là các nhà khảo cổ 
học, sử học, văn hóa học, dân tộc học 
có cách tiếp cận và phƣơng pháp 
nghiên cứu mới hơn, hiện đại hơn, 
chủ yếu là phƣơng pháp nghiên cứu 
liên ngành, nghiên cứu đa bộ môn vào 
việc tìm hiểu về Nhà nƣớc Văn Lang, 
về thời kỳ Hùng Vƣơng và thời kỳ Nhà 
nƣớc Âu Lạc tiếp đó. 
Trong các thập niên đầu thế kỷ XX, 
quá trình tiếp nhận phƣơng pháp 
nghiên cứu khảo cổ học, sử học, việc 
phát hiện nhiều di tích thuộc thời đại 
đồ đồng và đồ sắt sớm, và đặc biệt là 
việc phát hiện các di chỉ thuộc Văn 
hóa Đông Sơn đã tạo ra bƣớc chuyển 
biến quan trọng trong nghiên cứu về 
lịch sử thời kỳ cổ đại ở Việt Nam, giúp 
cho các nhà khoa học và ngƣời dân 
Việt Nam hiểu rõ hơn về những gì đã 
diễn ra trong lịch sử đất nƣớc mình 
cách hàng ngàn năm, lúc đó vẫn còn 
bị bao phủ nhƣ lớp sƣơng mờ, hƣ hƣ 
thực thực bởi các truyền thuyết. Văn 
hóa Đông Sơn là một nền văn hóa cổ 
từng tồn tại ở một số tỉnh Bắc Bộ và 
Bắc Trung Bộ Việt Nam. Nền văn hóa 
này với những di vật đầu tiên đƣợc 
tìm thấy ở làng Đông Sơn, tỉnh Thanh 
Hóa ven sông Mã vào năm 1924 và 
chính thức đƣợc học giả R. Heine-
Geldern đặt tên là Văn hóa Đông Sơn 
vào năm 1934 sau khi đã phát hiện 
hàng trăm di tích và hàng vạn di vật 
thuộc loại hình Đông Sơn. Loại hình 
các di tích này rất đa dạng, bao gồm 
những khu cƣ trú, khu mộ táng, trong 
đó có một huyệt đất, mộ vò hay mộ có 
quan tài thân cây khoét rỗng (mộ 
thuyền). 
Hiện vật thuộc Văn hóa Đông Sơn đặc 
trƣng qua những bộ hiện vật đồng đa 
dạng và độc đáo, gồm rìu nhiều kiểu 
nhƣ rìu lƣỡi xéo, giáo, dao găm có 
cán hình ngƣời hay động vật, các đồ 
đựng nhƣ thố, bình, thạp và các nhạc 
cụ nhƣ chuông, trống. Đặc biệt, trong 
một số di chỉ thuộc Văn hóa Đông 
Sơn, các nhà nghiên cứu đã phát hiện 
ra trống đồng loại sớm – trống Hêgơ 
loại 1 với hoa văn rất đẹp, đã trở 
thành hiện vật tiêu biểu cho văn hóa 
khảo cổ học nổi tiếng này. Nguyên 
liệu chủ yếu đƣợc cƣ dân Đông Sơn 
dùng để chế tạo các công cụ lao động 
chủ yếu cũng nhƣ các đồ trang sức, 
vũ khí và đồ thờ là loại hợp kim đồng - 
thiếc - chì. Với nhiều hiện vật đồng tìm 
đƣợc cùng các di vật sắt và di tích lò 
nấu sắt, các nhà nghiên cứu xếp Văn 
hóa Đông Sơn thuộc thời đại đồ sắt 
sớm qua nhiều cuộc thảo luận khoa 
học. Các nhà khảo cổ học cho rằng 
cƣ dân Đông Sơn là cƣ dân nông 
nghiệp, chủ yếu trồng lúa. Họ đã chăn 
nuôi trâu, bò, lợn, gà, biết làm nhiều 
nghề thủ công nhƣ làm mộc, sơn, làm 
gốm, đặc biệt là luyện kim và chế tác 
đồ kim loại 
Văn hóa Đông Sơn đƣợc phát hiện và 
bắt đầu nghiên cứu trong vài thập niên 
 TRẦN ĐỨC CƢỜNG – HÙNG VƢƠNG TRONG TÂM THỨC 
40 
đầu của thế kỷ XX, chủ yếu là thập 
niên 20 và 30, trƣớc Thế chiến thứ hai. 
Vào thời kỳ này, một số học giả 
phƣơng Tây đã có nhiều đóng góp 
trong việc nghiên cứu Văn hóa Đông 
Sơn. Các học giả này gồm L. Paijot, 
R. Heine-Geldern, V. Goloubew, E. 
Karlgren, O. Jansé, H. Maspéro, L. 
Aurousseau Họ đánh giá cao giá trị 
văn hóa, lịch sử của các hiện vật tìm 
đƣợc trong các di chỉ Văn hóa Đông 
Sơn. Họ thừa nhận đã từng có một 
vƣơng quốc cổ đại tồn tại ở miền Bắc 
Việt Nam trƣớc khi bị những kẻ xâm 
lƣợc phƣơng Bắc thôn tính. Nhƣng 
nhiều ngƣời trong số họ không công 
nhận nƣớc Văn Lang và giải thích 
nguồn gốc của chủ nhân Văn hóa 
Đông Sơn là cƣ dân từ lƣu vực sông 
Dƣơng Tử (Trung Quốc) di cƣ xuống 
(quan điểm của L. Aurousseau), hoặc 
Văn hóa Đông Sơn là sự vay mƣợn 
của nghệ thuật sông Hoài (Trung 
Quốc) 
Với quan niệm nguồn gốc Văn hóa 
Đông Sơn là do du nhập từ bên ngoài 
vào Việt Nam theo thuyết “trung tâm” 
và “ngoại vi”, nhà nghiên cứu O. 
Jansé còn đi xa hơn. ng cho rằng: 
Văn hóa Đông Sơn chịu ảnh hƣởng 
của văn hóa thời Chiến Quốc ở Trung 
Quốc. Mà văn hóa Chiến Quốc lại bắt 
nguồn từ văn hóa Hallstatt ở Châu Âu 
truyền qua vùng thảo nguyên Âu - Á 
(Phan Huy Lê - Trần Quốc Vƣợng - 
Hà Văn Tấn - Lƣơng Ninh - tập 1, 
1983: 79). 
Chỉ từ sau khi nƣớc nhà giành đƣợc 
Độc lập năm 1945, nền sử học Việt 
Nam có điều kiện để phát triển, những 
vấn đề cơ bản về lịch sử đất nƣớc 
mới đƣợc thực sự quan tâm. Những 
vấn đề về nguồn gốc ngƣời Việt, quá 
trình hình thành Nhà nƣớc ở Việt Nam, 
các nền văn hóa đã từng tồn tại trên 
đất nƣớc ta mới đƣợc chú ý nghiên 
cứu, nhất là sau khi Ban Nghiên cứu 
Văn - Sử - Địa đƣợc thành lập vào 
tháng 12/1953. Điều này đáp ứng yêu 
cầu của giới nghiên cứu và các tầng 
lớp nhân dân đòi hỏi những hiểu biết 
đầy đủ hơn về lịch sử đất nƣớc qua 
các chứng cớ khoa học có sức thuyết 
phục. 
Trong các vấn đề đƣợc giới nghiên 
cứu quan tâm, có vấn đề về Văn hóa 
Đông Sơn và thời kỳ Hùng Vƣơng, 
thời kỳ An Dƣơng Vƣơng, mối quan 
hệ giữa Văn hóa Đông Sơn với thời 
kỳ Hùng Vƣơng 
Việc nghiên cứu thời kỳ Hùng Vƣơng, 
thời kỳ dựng nƣớc đầu tiên của dân 
tộc Việt Nam đã đƣợc Nhà nƣớc và 
giới nghiên cứu khoa học xã hội đặc 
biệt quan tâm dù lúc ấy, đất nƣớc 
đang phải trải qua những năm tháng 
chiến tranh khốc liệt của cuộc kháng 
chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Một kế 
hoạch nghiên cứu trong nhiều năm đã 
đƣợc thực hiện có sự tham gia của 
nhiều cơ quan khoa học và nhiều nhà 
nghiên cứu thuộc các ngành sử học, 
khảo cổ học, dân tộc học, cổ sinh học, 
cổ nhân học, văn hóa học do Viện 
Khảo cổ học là cơ quan chủ trì. Bốn 
cuộc Hội nghị khoa học cấp Quốc gia 
về Hùng Vương dựng nước đã đƣợc 
tổ chức vào các năm 1968, 1969, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
41 
1970 và 1971 tại Thủ đô Hà Nội thu 
hút đƣợc sự quan tâm của giới học 
thuật cả nƣớc. 
Với cách tiếp cận đa bộ môn và 
phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành, 
cùng với quá trình khai quật nhiều di 
chỉ khảo cổ học thuộc các nền văn 
hóa Đồng Đậu, Gò Mun, Phùng 
Nguyên và đặc biệt thuộc Văn hóa 
Đông Sơn, các nhà nghiên cứu đã có 
thể đƣa ra một số kết luận tổng quát: 
Văn hóa Đông Sơn có nguồn gốc bản 
địa, đã ra đời, phát triển và đạt tới 
đỉnh cao trên đất nƣớc Việt Nam, là 
sự tiếp nối của các nền văn hóa trƣớc 
đó là văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa 
Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, chủ yếu 
tồn tại trên địa bàn Bắc Bộ và Bắc 
Trung Bộ, gắn với lƣu vực sông Hồng, 
sông Mã và sông Cả. 
Bằng các cứ liệu lịch sử và qua nhiều 
cuộc thảo luận, các nhà nghiên cứu 
đã nói rõ hơn, cụ thể hơn về một số 
đặc điểm của Văn hóa Đông Sơn. Đó 
là một nền văn hóa lúa nƣớc khá phát 
triển. Do đó, thực phẩm tƣơng đối dồi 
dào và đã có dự trữ dẫn đến sự phân 
tầng xã hội trong nội bộ ngƣời Việt cổ. 
Thứ đến, phải thấy rõ là vào thời kỳ 
này, kỹ thuật đúc đồng đã rất phát 
triển. Các hiện vật bằng đồng thu 
đƣợc qua nhiều cuộc khai quật đã nói 
rõ điều ấy, trong đó nổi bật là các 
trống đồng. Trống đồng là niềm tự hào 
về trình độ phát triển của ngƣời Việt. 
Giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng đã phân 
tích sự bền vững trong tâm thức của 
ngƣời Việt về niềm tự hào ấy: “Nhƣ 
biết bao hiện tƣợng lịch sử - văn hóa 
khác, nền văn hóa trống đồng đã qua 
đi, đã tàn lụi dần, nhƣng những sở 
đắc văn hóa trống đồng thì vẫn còn lại. 
Những sở đắc, những thành tựu văn 
hóa đó vẫn đƣợc lƣu giữ nơi tâm thức 
ngƣời Việt phƣơng Nam” (Trần Quốc 
Vƣợng, 2018: 252). 
Nếu quan niệm Văn hóa Đông Sơn 
kéo dài đến gần hết thiên niên kỷ thứ 
nhất trƣớc Công nguyên thì cần ghi 
nhận rằng kỹ thuật quân sự của ngƣời 
Việt trong thời kỳ này đã rất phát triển. 
Sự tồn tại của thành Cổ Loa với các 
mũi tên đồng và nỏ đã chứng tỏ sự 
xác đáng của nhận định này. Và cuối 
cùng là về xã hội: sự tổ chức cộng 
đồng hoàn chỉnh theo phƣơng thức xã 
thôn tự trị mà đỉnh cao là sự thành lập 
Nhà nước Văn Lang đã nói rõ điều ấy. 
Từ nhận xét này, các nhà nghiên cứu 
đã xây dựng đƣợc mối quan hệ mật 
thiết giữa Văn hóa Đông Sơn trong 
văn hóa khảo cổ học với thời kỳ Hùng 
Vƣơng đƣợc thể hiện nhƣ phần cốt lõi 
trong các truyền thuyết lƣu truyền 
trong tâm thức dân gian của ngƣời 
Việt, và trong những điều đã đƣợc thể 
hiện qua một số công trình sử học. Từ 
các kết quả nghiên cứu, có thể khẳng 
định: Văn hóa Đông Sơn chính là cơ 
sở vật chất thời kỳ Nhà nƣớc Văn 
Lang của các vua Hùng. Từ niên đại 
của Văn hóa Đông Sơn, có đối chiếu 
với các nội dung đƣợc hệ thống hóa 
qua các công trình nghiên cứu lịch sử 
và văn hóa, có thể khẳng định: Nhà 
nƣớc Văn Lang với sự hiện diện của 
các vua Hùng trong lịch sử dân tộc 
từng tồn tại trong khoảng thiên niên kỷ 
 TRẦN ĐỨC CƢỜNG – HÙNG VƢƠNG TRONG TÂM THỨC 
42 
thứ I trƣớc Công nguyên, và cụ thể 
hơn là vào khoảng thế kỷ thứ VII 
trƣớc Công nguyên Điều này trùng 
hợp với niên đại năm 692 - 682 trƣớc 
Công nguyên của đoạn văn trong Việt 
sử lược đã đề cập ở trên. 
Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn 
hóa từ lâu đời. Trong các giá trị văn 
hóa đƣợc ngƣời Việt truyền lại từ đời 
này sang đời khác, có phong tục thờ 
cúng tổ tiên. Thông qua việc thờ cúng 
tổ tiên, ngƣời Việt muốn thể hiện lòng 
biết ơn đối với những ngƣời đã có 
công sinh thành, dƣỡng dục mình và 
con cháu. Mỗi gia đình, dòng họ đều 
coi việc thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ 
tiên là việc hệ trọng Điểm đặc biệt là 
trên phạm vi cả nƣớc, là tục thờ cúng 
Hùng Vƣơng – đây là ngày Quốc giỗ 
thờ cúng ngƣời đứng đầu Nhà nƣớc 
đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Ngay 
từ năm 1917, triều Nguyễn đã giao 
cho Bộ Lễ chính thức định ngày Quốc 
lễ – giỗ tổ Hùng Vƣơng vào ngày 
mùng 10 tháng Ba âm lịch hàng năm. 
Quyết định này đƣợc ngƣời dân hoan 
nghênh, thể hiện qua câu ca dao: 
“Dù ai đi ngược về xuôi 
Nhớ ngày giỗ T mùng 10 tháng Ba” 
Trong ngày ấy, ngƣời dân có điều 
kiện thì về Đất Tổ - tỉnh Phú Thọ, nơi 
có đền thờ Vua Hùng thắp hƣơng, 
dâng lễ tỏ lòng tri ân các vua Hùng. 
Ngƣời không có điều kiện thì làm lễ 
bái vọng với sự thành tâm đối với vị 
Quốc tổ của mình. 
Năm 1946, thể theo nguyện vọng của 
ngƣời dân, ngay sau khi đất nƣớc 
giành đƣợc Độc lập (tháng 9/1945), 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh 
đƣa ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng Ba 
âm lịch hàng năm là ngày lễ chính 
thức của dân tộc. Trong ngày này, 
viên chức Nhà nƣớc đƣợc nghỉ để 
tham gia làm lễ cùng với nhân dân cả 
nƣớc. 
Vào ngày Giỗ Tổ năm 1946, cụ Huỳnh 
Thúc Kháng – Bộ trƣởng Bộ Nội vụ, 
thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa làm lễ dâng hƣơng tại Đền 
Hùng, Phú Thọ. Cụ đã dâng lên bàn 
thờ các vua Hùng tấm bản đồ Việt 
Nam và thanh gƣơm là hai vật báu thể 
hiện ý chí của Chính phủ và nhân dân 
kiên quyết bảo vệ Tổ quốc trƣớc họa 
xâm lăng của thực dân Pháp. 
Năm 1954, với chiến thắng của quân 
và dân Việt Nam trong cuộc tiến công 
chiến lƣợc Đông Xuân 1953 - 1954 
mà đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện 
Biên Phủ, thực dân Pháp phải ký 
Hiệp định Genève lập lại hòa bình ở 
Việt Nam, Lào và Campuchia. Ngày 
18/9/1954, nói chuyện với đại biểu 
cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 tại Đền 
Hùng, trên đƣờng Đại đoàn về tiếp 
quản Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí 
Minh nói: “Các vua Hùng đã có công 
dựng nƣớc, Bác cháu ta phải cùng 
nhau giữ lấy nƣớc”. 
Cho đến nay, nhiều chỉ thị, nghị định, 
nghị quyết, Đảng, Chính phủ đã đƣa 
ra quy định về việc xếp ngày 10 tháng 
Ba âm lịch hàng năm là ngày Quốc lễ 
của cả dân tộc. Đền Hùng, nơi thờ 
các vua Hùng trở thành di tích đặc 
biệt cấp Quốc gia. Thấy rõ vị trí của 
tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
43 
trong tâm thức của ngƣời Việt, ngày 
6/12/2012, UNESCO – Tổ chức văn 
hóa và giáo dục của Liên hiệp quốc đã 
chính thức ghi danh Tín ngưỡng thờ 
cúng Hùng Vương là di s n vật thể đại 
diện cho nhân loại vì những giá trị n i 
bật mang tính toàn cầu. Quyết định 
này đã góp phần khích lệ ý thức 
chung trong việc thúc đẩy tinh thần đại 
đoàn kết, tƣởng nhớ, tôn kính tổ tiên 
của dân tộc Việt Nam.  
CHÚ THÍCH 
 (1)
 Việc gắn Hồng Bàng với Thần Nông “chắc chắn là do các nhà viết sử muốn đặt các triều 
đại Việt Nam ngang hàng với các triều đại Trung Quốc” (Lê Thành Khôi, 2014: 70). 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Lê Thành Khôi. 2014. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX. Hà Nội: 
Nxb. Thế giới. 
2. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. 1972. Đại Việt sử ý toàn thư – tập 1. Hà Nội: 
Nxb. Khoa học Xã hội. 
3. Phan Huy Chú. 1992. Lịch triều hiến chương loại chí – tập 1. Hà Nội: Nxb. Khoa học 
Xã hội. 
4. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vƣợng - Hà Văn Tấn - Lƣơng Ninh. 1983. Lịch sử Việt 
Nam – tập 1. Hà Nội: Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp. 
5. Trần Quốc Vƣợng dịch và chú giải. 2005. Việt sử lược. Huế: Nxb. Thuận Hóa và 
Trung tâm Văn hóa Đông Tây. 
6. Trần Quốc Vƣợng. 2018. “Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức Việt cổ”. In trong: 
Viện Khảo cổ học, Tuyển tập 50 năm h o c h c Việt Nam (1968 - 2018). Hà Nội: Nxb. 
Khoa học Xã hội. 
7. Trần Trọng Kim. 1999. Việt Nam sử lược. Hà Nội: Nxb. Văn hóa - Thông tin. 
8. Vũ Quỳnh - Kiều Phú (Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San dịch). 1969. Lĩnh Nam 
chích quái. Hà Nội: Nxb. Văn hóa. 

File đính kèm:

  • pdfhung_vuong_trong_tam_thuc_nguoi_viet.pdf