Hùng Vương trong tâm thức người Việt
Truyền thuyết về thời đại Hùng Vương, thời đại mở đầu cho lịch sử dựng nước
của dân tộc Việt Nam, gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước
Văn Lang trên cơ sở nền Văn hóa Đông Sơn luôn có một vị trí hết sức đặc biệt
trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. Vì vậy, việc làm sáng tỏ các vấn đề
tồn nghi theo c c c ch tiếp cận h c nhau như văn hóa d n gian, sử h c ha
h o c h c về thời đại Hùng Vương hông chỉ góp phần làm sâu sắc hơn
những giá trị lịch sử, văn hóa Việt Nam mà còn hơi dậy niềm tự hào dân tộc
cho thế hệ trẻ hôm nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Hùng Vương trong tâm thức người Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hùng Vương trong tâm thức người Việt
ều đình là Quốc sử quán đã tổ chức biên soạn một bộ sử lớn, mang tính chất “quốc sử” là Kh m định Việt sử thông gi m cương mục 52 quyển gồm phần Tiền biên (5 quyển) và Chính biên (47 quyển). Trong phần Tiền biên, các tác giả Quốc sử quán triều Nguyễn đã biên chép kỹ hơn các tác phẩm trƣớc đó về thời kỳ Hùng Vƣơng. Dù đã đƣa vào lịch sử, nhƣng về thời kỳ của Nhà nƣớc Văn Lang, thời kỳ các vua Hùng vẫn còn tồn nghi nhiều câu hỏi, nhiều vấn đề mà các tập truyện truyền kỳ dân gian nhƣ Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích qu i chƣa thể giải đáp, kể cả các công trình sử học nhƣ Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Kh m định Việt sử thông gi m cương mục. Chính Ngô Sĩ Liên, ngƣời khởi đầu và viết chính cuốn Đại Việt sử ý toàn thư, từng nêu: “Đời Hùng Vƣơng, đặt chƣ hầu làm phên giậu, chia nƣớc làm 15 bộ, ở 15 bộ ấy đều có trƣởng và tá, Các con thứ cứ theo thứ tự chia nhau để trị. Cái thuyết nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu không phải là thế? Vì là mẹ làm quân trƣởng, các con đều làm chủ một phƣơng. Cứ xem nhƣ tù trƣởng Man ngày nay, xƣng là nam phụ đạo, nữ phụ đạo. Còn nhƣ việc Sơn Tinh, Thủy Tinh thì rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi” (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, tập 1, 1972: 63). “Sự nghi ngờ” ấy tồn tại mãi đến vài trăm năm sau. Vào nửa đầu thế kỷ XX, nhà sử học Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược viết về đời thƣợng cổ còn cho rằng: “Chẳng qua nhà làm sử cũng nhặt nhạnh những chuyện hoang đƣờng tục truyền lại, làm nên những truyện ấy toàn là truyện có thần tiên, quỷ quái, trái với lẽ tự nhiên cả” (Trần Trọng Kim, 1999: 27). Nhƣ vậy, có thể nói, nếu chỉ dựa vào các truyền thuyết dân gian và một số TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 39 sách sử đƣợc biên soạn khoảng đầu thế kỷ XX, việc tìm hiểu kỹ về lịch sử các nhà nƣớc đầu tiên trên đất nƣớc ta, trong đó có Nhà nƣớc Văn Lang và thời kỳ các vua Hùng gặp nhiều khó khăn. Khó khăn ấy chỉ có thể vƣợt qua khi các nhà nghiên cứu khoa học xã hội, trƣớc hết là các nhà khảo cổ học, sử học, văn hóa học, dân tộc học có cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu mới hơn, hiện đại hơn, chủ yếu là phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành, nghiên cứu đa bộ môn vào việc tìm hiểu về Nhà nƣớc Văn Lang, về thời kỳ Hùng Vƣơng và thời kỳ Nhà nƣớc Âu Lạc tiếp đó. Trong các thập niên đầu thế kỷ XX, quá trình tiếp nhận phƣơng pháp nghiên cứu khảo cổ học, sử học, việc phát hiện nhiều di tích thuộc thời đại đồ đồng và đồ sắt sớm, và đặc biệt là việc phát hiện các di chỉ thuộc Văn hóa Đông Sơn đã tạo ra bƣớc chuyển biến quan trọng trong nghiên cứu về lịch sử thời kỳ cổ đại ở Việt Nam, giúp cho các nhà khoa học và ngƣời dân Việt Nam hiểu rõ hơn về những gì đã diễn ra trong lịch sử đất nƣớc mình cách hàng ngàn năm, lúc đó vẫn còn bị bao phủ nhƣ lớp sƣơng mờ, hƣ hƣ thực thực bởi các truyền thuyết. Văn hóa Đông Sơn là một nền văn hóa cổ từng tồn tại ở một số tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Nền văn hóa này với những di vật đầu tiên đƣợc tìm thấy ở làng Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa ven sông Mã vào năm 1924 và chính thức đƣợc học giả R. Heine- Geldern đặt tên là Văn hóa Đông Sơn vào năm 1934 sau khi đã phát hiện hàng trăm di tích và hàng vạn di vật thuộc loại hình Đông Sơn. Loại hình các di tích này rất đa dạng, bao gồm những khu cƣ trú, khu mộ táng, trong đó có một huyệt đất, mộ vò hay mộ có quan tài thân cây khoét rỗng (mộ thuyền). Hiện vật thuộc Văn hóa Đông Sơn đặc trƣng qua những bộ hiện vật đồng đa dạng và độc đáo, gồm rìu nhiều kiểu nhƣ rìu lƣỡi xéo, giáo, dao găm có cán hình ngƣời hay động vật, các đồ đựng nhƣ thố, bình, thạp và các nhạc cụ nhƣ chuông, trống. Đặc biệt, trong một số di chỉ thuộc Văn hóa Đông Sơn, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra trống đồng loại sớm – trống Hêgơ loại 1 với hoa văn rất đẹp, đã trở thành hiện vật tiêu biểu cho văn hóa khảo cổ học nổi tiếng này. Nguyên liệu chủ yếu đƣợc cƣ dân Đông Sơn dùng để chế tạo các công cụ lao động chủ yếu cũng nhƣ các đồ trang sức, vũ khí và đồ thờ là loại hợp kim đồng - thiếc - chì. Với nhiều hiện vật đồng tìm đƣợc cùng các di vật sắt và di tích lò nấu sắt, các nhà nghiên cứu xếp Văn hóa Đông Sơn thuộc thời đại đồ sắt sớm qua nhiều cuộc thảo luận khoa học. Các nhà khảo cổ học cho rằng cƣ dân Đông Sơn là cƣ dân nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa. Họ đã chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, biết làm nhiều nghề thủ công nhƣ làm mộc, sơn, làm gốm, đặc biệt là luyện kim và chế tác đồ kim loại Văn hóa Đông Sơn đƣợc phát hiện và bắt đầu nghiên cứu trong vài thập niên TRẦN ĐỨC CƢỜNG – HÙNG VƢƠNG TRONG TÂM THỨC 40 đầu của thế kỷ XX, chủ yếu là thập niên 20 và 30, trƣớc Thế chiến thứ hai. Vào thời kỳ này, một số học giả phƣơng Tây đã có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn. Các học giả này gồm L. Paijot, R. Heine-Geldern, V. Goloubew, E. Karlgren, O. Jansé, H. Maspéro, L. Aurousseau Họ đánh giá cao giá trị văn hóa, lịch sử của các hiện vật tìm đƣợc trong các di chỉ Văn hóa Đông Sơn. Họ thừa nhận đã từng có một vƣơng quốc cổ đại tồn tại ở miền Bắc Việt Nam trƣớc khi bị những kẻ xâm lƣợc phƣơng Bắc thôn tính. Nhƣng nhiều ngƣời trong số họ không công nhận nƣớc Văn Lang và giải thích nguồn gốc của chủ nhân Văn hóa Đông Sơn là cƣ dân từ lƣu vực sông Dƣơng Tử (Trung Quốc) di cƣ xuống (quan điểm của L. Aurousseau), hoặc Văn hóa Đông Sơn là sự vay mƣợn của nghệ thuật sông Hoài (Trung Quốc) Với quan niệm nguồn gốc Văn hóa Đông Sơn là do du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam theo thuyết “trung tâm” và “ngoại vi”, nhà nghiên cứu O. Jansé còn đi xa hơn. ng cho rằng: Văn hóa Đông Sơn chịu ảnh hƣởng của văn hóa thời Chiến Quốc ở Trung Quốc. Mà văn hóa Chiến Quốc lại bắt nguồn từ văn hóa Hallstatt ở Châu Âu truyền qua vùng thảo nguyên Âu - Á (Phan Huy Lê - Trần Quốc Vƣợng - Hà Văn Tấn - Lƣơng Ninh - tập 1, 1983: 79). Chỉ từ sau khi nƣớc nhà giành đƣợc Độc lập năm 1945, nền sử học Việt Nam có điều kiện để phát triển, những vấn đề cơ bản về lịch sử đất nƣớc mới đƣợc thực sự quan tâm. Những vấn đề về nguồn gốc ngƣời Việt, quá trình hình thành Nhà nƣớc ở Việt Nam, các nền văn hóa đã từng tồn tại trên đất nƣớc ta mới đƣợc chú ý nghiên cứu, nhất là sau khi Ban Nghiên cứu Văn - Sử - Địa đƣợc thành lập vào tháng 12/1953. Điều này đáp ứng yêu cầu của giới nghiên cứu và các tầng lớp nhân dân đòi hỏi những hiểu biết đầy đủ hơn về lịch sử đất nƣớc qua các chứng cớ khoa học có sức thuyết phục. Trong các vấn đề đƣợc giới nghiên cứu quan tâm, có vấn đề về Văn hóa Đông Sơn và thời kỳ Hùng Vƣơng, thời kỳ An Dƣơng Vƣơng, mối quan hệ giữa Văn hóa Đông Sơn với thời kỳ Hùng Vƣơng Việc nghiên cứu thời kỳ Hùng Vƣơng, thời kỳ dựng nƣớc đầu tiên của dân tộc Việt Nam đã đƣợc Nhà nƣớc và giới nghiên cứu khoa học xã hội đặc biệt quan tâm dù lúc ấy, đất nƣớc đang phải trải qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Một kế hoạch nghiên cứu trong nhiều năm đã đƣợc thực hiện có sự tham gia của nhiều cơ quan khoa học và nhiều nhà nghiên cứu thuộc các ngành sử học, khảo cổ học, dân tộc học, cổ sinh học, cổ nhân học, văn hóa học do Viện Khảo cổ học là cơ quan chủ trì. Bốn cuộc Hội nghị khoa học cấp Quốc gia về Hùng Vương dựng nước đã đƣợc tổ chức vào các năm 1968, 1969, TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 41 1970 và 1971 tại Thủ đô Hà Nội thu hút đƣợc sự quan tâm của giới học thuật cả nƣớc. Với cách tiếp cận đa bộ môn và phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành, cùng với quá trình khai quật nhiều di chỉ khảo cổ học thuộc các nền văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun, Phùng Nguyên và đặc biệt thuộc Văn hóa Đông Sơn, các nhà nghiên cứu đã có thể đƣa ra một số kết luận tổng quát: Văn hóa Đông Sơn có nguồn gốc bản địa, đã ra đời, phát triển và đạt tới đỉnh cao trên đất nƣớc Việt Nam, là sự tiếp nối của các nền văn hóa trƣớc đó là văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, chủ yếu tồn tại trên địa bàn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, gắn với lƣu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Bằng các cứ liệu lịch sử và qua nhiều cuộc thảo luận, các nhà nghiên cứu đã nói rõ hơn, cụ thể hơn về một số đặc điểm của Văn hóa Đông Sơn. Đó là một nền văn hóa lúa nƣớc khá phát triển. Do đó, thực phẩm tƣơng đối dồi dào và đã có dự trữ dẫn đến sự phân tầng xã hội trong nội bộ ngƣời Việt cổ. Thứ đến, phải thấy rõ là vào thời kỳ này, kỹ thuật đúc đồng đã rất phát triển. Các hiện vật bằng đồng thu đƣợc qua nhiều cuộc khai quật đã nói rõ điều ấy, trong đó nổi bật là các trống đồng. Trống đồng là niềm tự hào về trình độ phát triển của ngƣời Việt. Giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng đã phân tích sự bền vững trong tâm thức của ngƣời Việt về niềm tự hào ấy: “Nhƣ biết bao hiện tƣợng lịch sử - văn hóa khác, nền văn hóa trống đồng đã qua đi, đã tàn lụi dần, nhƣng những sở đắc văn hóa trống đồng thì vẫn còn lại. Những sở đắc, những thành tựu văn hóa đó vẫn đƣợc lƣu giữ nơi tâm thức ngƣời Việt phƣơng Nam” (Trần Quốc Vƣợng, 2018: 252). Nếu quan niệm Văn hóa Đông Sơn kéo dài đến gần hết thiên niên kỷ thứ nhất trƣớc Công nguyên thì cần ghi nhận rằng kỹ thuật quân sự của ngƣời Việt trong thời kỳ này đã rất phát triển. Sự tồn tại của thành Cổ Loa với các mũi tên đồng và nỏ đã chứng tỏ sự xác đáng của nhận định này. Và cuối cùng là về xã hội: sự tổ chức cộng đồng hoàn chỉnh theo phƣơng thức xã thôn tự trị mà đỉnh cao là sự thành lập Nhà nước Văn Lang đã nói rõ điều ấy. Từ nhận xét này, các nhà nghiên cứu đã xây dựng đƣợc mối quan hệ mật thiết giữa Văn hóa Đông Sơn trong văn hóa khảo cổ học với thời kỳ Hùng Vƣơng đƣợc thể hiện nhƣ phần cốt lõi trong các truyền thuyết lƣu truyền trong tâm thức dân gian của ngƣời Việt, và trong những điều đã đƣợc thể hiện qua một số công trình sử học. Từ các kết quả nghiên cứu, có thể khẳng định: Văn hóa Đông Sơn chính là cơ sở vật chất thời kỳ Nhà nƣớc Văn Lang của các vua Hùng. Từ niên đại của Văn hóa Đông Sơn, có đối chiếu với các nội dung đƣợc hệ thống hóa qua các công trình nghiên cứu lịch sử và văn hóa, có thể khẳng định: Nhà nƣớc Văn Lang với sự hiện diện của các vua Hùng trong lịch sử dân tộc từng tồn tại trong khoảng thiên niên kỷ TRẦN ĐỨC CƢỜNG – HÙNG VƢƠNG TRONG TÂM THỨC 42 thứ I trƣớc Công nguyên, và cụ thể hơn là vào khoảng thế kỷ thứ VII trƣớc Công nguyên Điều này trùng hợp với niên đại năm 692 - 682 trƣớc Công nguyên của đoạn văn trong Việt sử lược đã đề cập ở trên. Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa từ lâu đời. Trong các giá trị văn hóa đƣợc ngƣời Việt truyền lại từ đời này sang đời khác, có phong tục thờ cúng tổ tiên. Thông qua việc thờ cúng tổ tiên, ngƣời Việt muốn thể hiện lòng biết ơn đối với những ngƣời đã có công sinh thành, dƣỡng dục mình và con cháu. Mỗi gia đình, dòng họ đều coi việc thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc hệ trọng Điểm đặc biệt là trên phạm vi cả nƣớc, là tục thờ cúng Hùng Vƣơng – đây là ngày Quốc giỗ thờ cúng ngƣời đứng đầu Nhà nƣớc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Ngay từ năm 1917, triều Nguyễn đã giao cho Bộ Lễ chính thức định ngày Quốc lễ – giỗ tổ Hùng Vƣơng vào ngày mùng 10 tháng Ba âm lịch hàng năm. Quyết định này đƣợc ngƣời dân hoan nghênh, thể hiện qua câu ca dao: “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ T mùng 10 tháng Ba” Trong ngày ấy, ngƣời dân có điều kiện thì về Đất Tổ - tỉnh Phú Thọ, nơi có đền thờ Vua Hùng thắp hƣơng, dâng lễ tỏ lòng tri ân các vua Hùng. Ngƣời không có điều kiện thì làm lễ bái vọng với sự thành tâm đối với vị Quốc tổ của mình. Năm 1946, thể theo nguyện vọng của ngƣời dân, ngay sau khi đất nƣớc giành đƣợc Độc lập (tháng 9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh đƣa ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng Ba âm lịch hàng năm là ngày lễ chính thức của dân tộc. Trong ngày này, viên chức Nhà nƣớc đƣợc nghỉ để tham gia làm lễ cùng với nhân dân cả nƣớc. Vào ngày Giỗ Tổ năm 1946, cụ Huỳnh Thúc Kháng – Bộ trƣởng Bộ Nội vụ, thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm lễ dâng hƣơng tại Đền Hùng, Phú Thọ. Cụ đã dâng lên bàn thờ các vua Hùng tấm bản đồ Việt Nam và thanh gƣơm là hai vật báu thể hiện ý chí của Chính phủ và nhân dân kiên quyết bảo vệ Tổ quốc trƣớc họa xâm lăng của thực dân Pháp. Năm 1954, với chiến thắng của quân và dân Việt Nam trong cuộc tiến công chiến lƣợc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève lập lại hòa bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Ngày 18/9/1954, nói chuyện với đại biểu cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 tại Đền Hùng, trên đƣờng Đại đoàn về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nƣớc, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nƣớc”. Cho đến nay, nhiều chỉ thị, nghị định, nghị quyết, Đảng, Chính phủ đã đƣa ra quy định về việc xếp ngày 10 tháng Ba âm lịch hàng năm là ngày Quốc lễ của cả dân tộc. Đền Hùng, nơi thờ các vua Hùng trở thành di tích đặc biệt cấp Quốc gia. Thấy rõ vị trí của tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 43 trong tâm thức của ngƣời Việt, ngày 6/12/2012, UNESCO – Tổ chức văn hóa và giáo dục của Liên hiệp quốc đã chính thức ghi danh Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di s n vật thể đại diện cho nhân loại vì những giá trị n i bật mang tính toàn cầu. Quyết định này đã góp phần khích lệ ý thức chung trong việc thúc đẩy tinh thần đại đoàn kết, tƣởng nhớ, tôn kính tổ tiên của dân tộc Việt Nam. CHÚ THÍCH (1) Việc gắn Hồng Bàng với Thần Nông “chắc chắn là do các nhà viết sử muốn đặt các triều đại Việt Nam ngang hàng với các triều đại Trung Quốc” (Lê Thành Khôi, 2014: 70). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Lê Thành Khôi. 2014. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX. Hà Nội: Nxb. Thế giới. 2. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. 1972. Đại Việt sử ý toàn thư – tập 1. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 3. Phan Huy Chú. 1992. Lịch triều hiến chương loại chí – tập 1. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 4. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vƣợng - Hà Văn Tấn - Lƣơng Ninh. 1983. Lịch sử Việt Nam – tập 1. Hà Nội: Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp. 5. Trần Quốc Vƣợng dịch và chú giải. 2005. Việt sử lược. Huế: Nxb. Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa Đông Tây. 6. Trần Quốc Vƣợng. 2018. “Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức Việt cổ”. In trong: Viện Khảo cổ học, Tuyển tập 50 năm h o c h c Việt Nam (1968 - 2018). Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 7. Trần Trọng Kim. 1999. Việt Nam sử lược. Hà Nội: Nxb. Văn hóa - Thông tin. 8. Vũ Quỳnh - Kiều Phú (Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San dịch). 1969. Lĩnh Nam chích quái. Hà Nội: Nxb. Văn hóa.
File đính kèm:
- hung_vuong_trong_tam_thuc_nguoi_viet.pdf