Học thuyết giá trị lao động: Một số vấn đề cần quan tâm
Học thuyết giá trị lao động của Mác là đúng đắn. Nhưng nếu “bảo vệ” Mác một cách giáo
điều thì sẽ không chỉ ra được quan điểm thực của Mác. Theo những người tiếp thu Mác không phải
từ gốc, Mác có ba điểm cốt tử rằng, “chỉ có lao động là nguồn gốc duy nhất của giá trị”, “thời gian
làm việc là thước đo của giá trị lao động”, và “nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là lao động
sống”. Thực ra, Mác chỉ nhấn mạnh, đề cao vai trò của lao động và thời gian làm việc, chứ không
hề tuyệt đối hóa chúng. Ông không ít lần nhắc tới các yếu tố khác mà ngày nay càng trở lên quan
trọng không kém gì lao động. Mác không cần sự “bảo vệ” nào, mà chỉ cần được hiểu cho đúng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Học thuyết giá trị lao động: Một số vấn đề cần quan tâm
việc. Và trên bình diện rộng hơn, Mác vẫn chưa kết thúc ý tưởng đi từ trừu tượng đến cụ thể to lớn của mình trong quá trình phân tích phê phán phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Điều này liên quan không chỉ đến ý đồ trình bày “hệ thống kinh tế tư sản (trong sáu cuốn) theo thứ tự sau đây: tư bản, sở hữu ruộng đất, lao động làm thuê, nhà nước, ngoại thương, thị trường thế giới” [2, tr.13], nơi bộ Tư bản chỉ là cuốn đầu tiên, mà còn đến cả việc xây dựng chính Tư bản. Ở nghĩa này, khó có thể vận dụng ngay các kết quả mà Mác thu được trong công trình chính của đời ông nếu không xử lý lại các mắt khâu trung gian không chỉ đối với hiện thực hiện nay, mà còn đối với cả hiện thực kinh tế thế kỷ XIX. 7. Giá trị thặng dư Mác xuất phát từ học thuyết giá trị lao động, cho rằng lao động sống là nguồn gốc duy nhất của giá trị, giá trị là sự kết tinh lao động xã hội cần thiết. Mác rất nhất quán dẫn dắt nguyên tắc này qua toàn bộ nghiên cứu kinh tế chính trị học của mình. Giá như ông xuất phát từ quan điểm rộng và chung hơn, thì sự giải quyết nhiều vấn đề cụ thể của kinh tế chính trị học có thể sẽ khác nhiều. Nếu khái niệm LLSX không bị quy chỉ về sức lao động, nếu ngay ở sự tiếp xúc đầu tiên với LLSX mà đã biết coi nó là sức lao động cộng với tư liệu sản xuất (tức là lao động sống và lao động tích lũy), giá như cứ mạnh dạn coi gần như tất cả mọi yếu tố khác của toàn bộ cấu trúc xã hội là các dạng LLSX gián tiếp, thì dĩ nhiên sẽ có thể giả định tất cả chúng đều sẽ tham gia vào việc tạo ra giá trị. Nguyễn Anh Tuấn 37 Có thể gọi các lực lượng sản xuất gián tiếp này là các nhân tố góp phần tạo ra giá trị, nhưng điều đó có thể chỉ là sự đặt tên khác cho cùng hiện thực đó mà thôi. Nếu nhờ sự hỗ trợ của tác nhân, lao động tạo ra giá trị lớn hơn (chẳng hạn, 10%), thì liệu có thể nói, nó (nhân tố X) là nguồn gốc của 10% giá trị bổ sung thêm không? Thêm vào đó, sự biến đổi các chức năng, cũng như “sự đảo ngược mối phụ thuộc chức năng” (x = f(y) → y = f(x)) là một tính quy luật rất phổ biến. Vì thế, không có gì lạ khi đầu tiên lao động là nguồn gốc của giá trị của lao động được tích lũy, của phương tiện sản xuất, rồi sau đó lao động được tích lũy, đến lượt mình lại trở thành nguồn gốc (đồng tác nhân tạo ra) của giá trị mới. Có không ít các giá trị như vậy (ví dụ, tiền như là phương tiện trao đổi trở thành phương tiện cất giữ của cải; ý thức vốn là sản phẩm của tồn tại, sau đó tác động ngược lại, thường mang tính quyết định đến tồn tại đã sinh ra nó). Liệu có phải mọi lao động được tích lũy đều là nguồn gốc của giá trị? Dĩ nhiên là không phải. Vàng cất kỹ trong rương, kim cương trong chiếc nhẫn, hay các tư liệu phục vụ đời sống mà con người đang dùng, chỉ có thể trở thành nguồn gốc như vậy. Vậy, đặc thù của sự khái quát mới về học thuyết giá trị thặng dư là gì? Chúng ta biết, Mác phê phán quan điểm của A.Xmit về ba nhân tố quyết định giá cả hàng hóa và cũng biết rõ cả học thuyết khá phổ biến sau này về vai trò của các nhân tố khác (ngoài lao động) trong việc tạo ra giá trị. Từ đó, theo Mác, phải nói chính xác và đầy đủ hơn rằng, lao động tạo ra giá trị, nhưng lao động không phải là nguồn duy nhất của giá trị. Những dẫn chứng nêu trên khẳng định rằng, Mác thừa hiểu vai trò thứ nhất, nền tảng, then chốt, đặc biệt của lao động sống như là nguồn gốc chủ yếu nhất của giá trị, vì thiếu nó thì tất cả các nhân tố khác đã không và không thể vận hành, nhưng không phải là nguồn gốc duy nhất. Song cũng có một thực tế rằng, Mác chỉ nhấn mạnh vế thứ nhất của mệnh đề trên, mà ít nhắc tới vế thứ hai. Điều đó có thể là do toàn bộ tinh lực và tình cảm của ông dành trọn để luận chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp những người lao động (công nhân, vô sản). 8. Ý nghĩa thực tiễn của học thuyết giá trị lao động Thứ nhất, đối với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu cả lao động được tích lũy (tư bản) cũng tham gia vào việc tạo ra giá trị (chứ nó không chỉ giản đơn mang giá trị phần hao mòn vô hình của mình trong quá trình sản xuất sang hàng hóa mới được tạo ra), thì rõ ràng tồn tại “phần lợi nhuận hợp pháp” có nguồn gốc không phải từ lao động sống tự thân, từ hoạt động của sức công nhân, mà từ tư liệu sản xuất thuộc về nhà tư bản (không xét đến cùng). Nhưng về lý thuyết, rất phức tạp để xác định “phần hợp pháp” đó. Cả công nhân lẫn nhà tư bản đều không mấy quan tâm trực diện chuyện này. Công nhân thì cho rằng, toàn bộ những gì được tạo ra đều phải thuộc về những người trực tiếp sản xuất như họ. Nhà tư bản lại cho rằng, khi đã trả cho giá trị của sức lao động (trả tiền cho việc sử dụng nó trong suốt thời gian thuê mướn, tức là dưới dạng cảm tưởng như tiền lương của toàn bộ lao động), thì nhà tư bản có quyền định đoạt toàn bộ sản phẩm được sản xuất ra, trong đó có cả sản phẩm thặng dư. Nhưng việc xác định được “phần hợp pháp” đó (trên lý thuyết hay thực tiễn, “trực quan”) lại có ý Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 38 nghĩa then chốt, vì nhờ đó trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội, nhà nước mới có thể thực hiện sự điều tiết hạn mức lợi nhuận. Điều tiết nhà nước, rốt cuộc, tức là điều tiết xã hội, bởi trong trường hợp này, theo Mác nhà nước thực hiện “các chức năng hợp lý” [3, tr.451] của mình; chẳng hạn, khi nhà nước xác định mức thuế trên tài sản kế thừa. Việc xác định “phần hợp pháp” này hướng đến chống lại chính sách tân tự do kinh tế mà trên thực tế chỉ kích thích sự hỗn loạn sở hữu tư nhân đã được Mác trích dẫn hơn 150 năm trước [5, tr.1056]. Sự xác định “phần hợp pháp” của lợi nhuận còn quan trọng đối với các nền kinh tế chuyển đổi (kinh tế của thời kỳ quá độ sang hình thái xã hội mới). Liệu cách lý giải nêu trên về quy luật giá trị thặng dư có xóa nhòa hiện tượng bóc lột, tức là sự tước đoạt bất hợp pháp lao động của người khác? Hoàn toàn không. Ngay ở Bản thảo kinh tế - triết học 1844, Mác đã làm rõ sự tha hóa tư liệu sản xuất khỏi người sản xuất. Vị thế của công nhân và nhà tư bản, của người sản xuất và kẻ sở hữu tư liệu sản xuất xã hội là không như nhau, “bất đối xứng”. Người sản xuất vì duy trì sự sống của mình chỉ bằng cách bán sức lao động, nên không thể tồn tại mà không sử dụng các tư liệu sản xuất không thuộc về anh ta. Còn kẻ sở hữu các tư liệu sản xuất đó, trong trường hợp người lao động nghỉ việc (lãn công, đình công, bãi công), có thể dùng đội quân dự trữ (là những lao động thất nghiệp), hoặc xấu nhất, thì vẫn sống tốt bằng vốn liếng đã có của mình, trong khi người lao động không thể nghỉ việc quá lâu, “tay quai miệng trễ” ngay. Kiểu gì thì nhà tư bản vẫn lạm dụng “vị thế có của” của mình để giành lấy phần lớn nhất có thể từ giá trị được tạo ra. Vậy là bóc lột vẫn cứ hoành hành. Thứ hai, khi phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa thắng lợi, thì còn có thể xác định khách quan hơn phần sản phẩm xã hội tổng thể được dùng để thỏa mãn các nhu cầu chung của xã hội, và phần được phân phối theo lao động có tính đến độ dài thời gian, cường độ, và chủ yếu là độ phức tạp của chính lao động. Những nhận xét nêu trên giúp hé lộ ra nhiều điểm có ý nghĩa đối với học thuyết giá trị thặng dư. Mác đã gọi tập 4 của Tư bản là Học thuyết giá trị thặng dư. Do vậy sự tồn tại của sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư đối với Mác là không thể tranh cãi, hay Mác thẳng thắn thừa nhận sự tồn tại của chúng. Trong thời gian lao động, người công nhân tạo ra không chỉ giá trị cần thiết cho sự tồn tại sức lao động của mình, của năng lực lao động ở nghĩa thông thường (bao gồm cả tồn tại của giống loài mình, của giai cấp những người sản xuất), mà cả phần giá trị thặng dư bị người sở hữu tư liệu sản xuất trực tiếp tước đoạt. Nếu những suy ngẫm mang tính phê phán nêu trên (không chỉ lao động, mà các yếu tố khác của sản xuất cũng tham gia tạo thành nguồn gốc của giá trị) là đúng, thì ngoài lao động sống là nguồn gốc chủ yếu của phần giá trị thặng dư, còn phải kể thêm vào đây các phương tiện được sử dụng trong quá trình sản xuất ra nó, và các yếu tố khác đã được nhắc tới ở trên. Và do vậy, không phải toàn bộ giá trị thặng dư đều thuộc về người chủ sở hữu phương tiện sản xuất (Mác gián tiếp nhắc nhở điều này khi ông hoạch định sự phân phối sản phẩm xã hội tổng thể ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa). Một phần của nó, dưới dạng thuế khóa, sẽ được chi dùng để thỏa mãn các nhu cầu chung Nguyễn Anh Tuấn 39 của xã hội4. Một phần nữa, trực tiếp hay gián tiếp, phải dành để trả cho những yếu tố vốn có thể coi là các nguồn bổ sung thêm cho giá trị được tạo ra (như địa tô, lợi tức từ các khoản vay ngân hàng). Phần nữa buộc phải dành để mở rộng (phát triển) sản xuất nhằm cạnh tranh hiệu quả hơn. Một phần phải để dành vào quỹ bảo hiểm hay dự trữ. Một phần chi phí cho quản lý sản xuất, nếu nhà tư bản không trực tiếp là doanh nhân; đây là phần trả cho lao động quản lý phức tạp (mà sự cần thiết của nó đã được Mác ghi nhận và xem xét trong Tư bản)5. Và không thể quên phần dành cho tiêu dùng cá nhân của chủ sở hữu và của gia đình người chủ đó và cho mọi sự tích trữ của họ. Vậy là có ít nhất đến sáu phần. Mối tương quan giữa tiền công lao động (của sức lao động) và giá trị thặng dư phụ thuộc đáng kể vào cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp cơ bản, điều đó cũng ảnh hưởng tới đại lượng giá trị thặng dư. Tóm lại, tương quan giữa lao động cần thiết và lao động thặng dư, giữa giá trị phải trả cho sức lao động và giá trị thặng dư không hề đơn giản như vẫn thường nghĩ, do vậy ở trên mới nói, sự xác định “phần hợp pháp” của lợi nhuận là rất khó khăn. Điều này ngay ở Việt Nam hiện nay cũng thể hiện rất rõ qua các vòng thương thảo đàm phán kéo dài về tỷ lệ tăng lương cơ bản cho người lao động trong năm tiếp theo giữa Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. 9. Kết luận Sự phát triển tiếp theo của học thuyết giá trị lao động, sự khắc phục tính phiến diện của nó, sự mở rộng và làm sâu sắc nó, được chúng tôi hình dung tương tự như là sự khái quát hóa bức tranh vật lý khi chuyển từ vật lý cổ điển Newton sang vật lý lượng tử tương đối tính của A.Einstein, N.Bohr, L. De Broglie. Cho đến tận khi trong thực tiễn vẫn chỉ có các vật thể khá lớn và vận tốc khá nhỏ thì cơ học cổ điển vẫn còn thích hợp với nó, bởi cơ học này xuất phát từ sự độc lập của không gian - thời gian và vật chất, của khối lượng và vận tốc chuyển động, từ nguyên tắc tương tác xa. Khi vật lý học mở rộng cuốn vào nó thế giới các hạt vi mô với vận tốc lớn như vận tốc ánh sáng, thì sẽ cần khái quát để xây dựng lý thuyết mới mà lý thuyết trước đây trở thành trường hợp riêng của nó. Học thuyết giá trị lao động, như đã được A.Xmit và Ricacđô gây dựng và như đã được Mác luận chứng ở khởi đầu của việc xây dựng kinh tế học chính trị mới của ông trong Tư bản, đã chịu sự ảnh hưởng của thời kỳ lịch sử hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cùng với sự gia tăng vai trò của phương tiện sản xuất với tư cách là tư bản bất biến, vai trò của sản xuất tinh thần trong tổng sản xuất xã hội, của lực lượng sản xuất khoa học, cùng với sự phát triển của sản xuất cơ giới và sự tự động hóa đầu tiên trên cơ sở của sản xuất đó, cùng với sự phát triển của các hình thức sở hữu cổ phần hóa, và nhiều những biến đổi về chất nữa của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì càng cần thiết phải phát triển tiếp học thuyết giá trị thặng dư. Và như đã phân tích ở trên, chúng ta thấy trong di sản lý luận của Mác đã lấp ló những tiền đề cho sự khái quát hóa và phát triển tất yếu đó từ lý thuyết khởi thủy ban đầu. Mác đã sử dụng học thuyết giá trị lao động để lý giải cơ chế bóc lột, để luận chứng cho học thuyết giá trị thặng dư. Sự khái quát hóa hơn học thuyết giá trị lao động không hề Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 40 phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư, mà còn chứng minh nó toàn diện hơn. Dĩ nhiên, các lập luận trên đây đều giả định sự vận hành “bình thường”, “văn minh” của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ lương bổng theo đúng giá trị sức lao động, chứ không có kiểu tích lũy ban đầu đầy tội ác, không có lối tước đoạt sở hữu theo lối mờ ám thân hữu, không có chuyện đoạt chiếm rẻ rúng tài nguyên thiên nhiên vốn thuộc về toàn xã hội. Nghĩa là cũng giả định xem xét chủ nghĩa tư bản dưới “dạng thuần túy” nhất. Chú thích 2 Học thuyết giá trị về lao động là học thuyết giá trị lao động. Theo Wikipedia Tiếng Việt: “Học thuyết giá trị lao động là một trong những học thuyết kinh tế về giá trị. Theo học thuyết này, giá trị của hàng hóa là do lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Người đặt nền móng đầu tiên cho học thuyết này là William Petty và John Locke. Adam Smith và David Ricardo là những người có đóng góp lớn cho học thuyết giá trị lao động” [8]. 3 Theo chúng tôi, sở dĩ có tranh luận này là do không hiểu mối tương quan lịch sử - lôgic (quy luật “di truyền sinh học” đặc thù của sự nghiên cứu và trình bày), cái trừu tượng và cái cụ thể trong phương pháp luận biện chứng của Mác nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 4 Trong các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa sản phẩm thặng dư được bòn rút dưới dạng vật cống nạp, làm trả nợ không công, sưu cao. 5 Nghiên cứu vai trò của các nhà quản lý là cực kỳ quan trọng. Cần chú ý đến tư tưởng của Ăngghen về “công nhân quý tộc” và tư tưởng sâu sắc của Mác trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền Hegel về ý muốn của giới quý tộc biến nhà nước thành sở hữu riêng của mình. Vì các viên quản trị, những công chức trong lĩnh vực kinh tế, cũng như các viên quan liêu ở địa bàn thượng tầng chính trị, cũng cố biến sở hữu mà mình có trách nhiệm quản lý thành sở hữu tư của mình. Và ở mức họ thực sự đạt được, họ thể hiện không chỉ như những kẻ làm thuê chuyên nghiệp, mà thực tế còn như những kẻ đồng sở hữu phương tiện sản xuất Tài liệu tham khảo [1] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.17, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [4] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [5] C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6] C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, t.25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7] C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.46, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [8] https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB% 8Dc_thuy%E1%BA%BFt_gi%C3%A1_tr% E1%BB%8B_lao_%C4%91%E1%BB%99ng, truy cập ngày 10/10/2018.
File đính kèm:
- hoc_thuyet_gia_tri_lao_dong_mot_so_van_de_can_quan_tam.pdf