Học tập tự định hướng – Nhằm phát huy tính chủ động, tích cực cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Tóm tắt. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật cùng với sự bùng
nổ của công nghệ thông tin, những tri thức mới, sự tăng lên gấp bội của sáng tạo công nghệ
và kĩ thuật,. . . đòi hỏi con người phải có năng lực tự học, tự đào tạo để thích ứng. Qua đó,
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của người học trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Để
quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất thì
các phương pháp dạy học chủ động (active-learning) tỏ ra rất phù hợp. Đặc biệt là phương
pháp học tập tự định hướng (HTTĐH) cho phép sinh viên (SV) tự lựa chọn con đường đi và
định hướng đích đến của mình, với sự hổ trợ của giảng viên (GV). Vì vậy, mô hình HTTĐH
chắc chắn sẽ tìm được sự đồng thuận cao từ cộng đồng và là mảnh đất tốt cho những ai có
khát vọng học tập suốt đời.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Học tập tự định hướng – Nhằm phát huy tính chủ động, tích cực cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế
ọc mang lại!” Dạy học tự định hướng (DHTĐH) là hoạt động dạy học mang tính cá biệt hoá. Quá trình dạy học dựa trên nhu cầu, năng lực của người học và diễn ra theo phương hướng, chiến lược do người học tự xác định. Để thực hiện tốt DHTĐH đòi hỏi GV phải có hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực khoa học chuyên ngành, thường xuyên cập nhật kiến thức, tự nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi sinh ngữ và nghiệp vụ sư phạm để có thể làm tốt nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn SV. Đồng thời GV cũng phải có năng lực tổ chức để có thể quản lí, giám sát hoạt động học tập của lớp học. [5] 2.3. Đề xuất mô hình và qui trình HTTĐH Theo quan điểm của cá nhân, tác giả đề xuất mô hình hoạt động HTTĐH (Hình 1) bao gồm các giai đoạn cơ bản như sau: 31 Trương Minh Trí, Bùi Văn Hồng, Võ Thị Xuân 2.3.1. Giai đoạn 1: Hoạch định Đánh giá hiệu quả học tập hiện tại. Đây là năng lực của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi. Để quá trình HTTĐH diễn ra thành công, người học cần thiết lập cơ sở hoạch định để định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có thể sử dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức năng nhận thức đối tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo kế hoạch. Hình 1. Mô hình Học tập tự định hướng 2.3.2. Giai đoạn 2: Tổ chức thực hiện Khi xác định được mục tiêu, nội dung và phương pháp học. Người học phải xây dựng được kĩ năng tổ chức học tập. Tổ chức thực hiện kế hoạch; có thể là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn cho chương trình đào tạo, hoặc kế hoạch cho từng môn học, từng phần. . . Điều cần thiết là kế hoạch phải được thiết lập rõ ràng, được tổ chức thực thực hiện cho từng giai đoạn, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của người học. Như vậy, người học có thể tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức một cách dễ dàng. Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần có một số kĩ năng sau: - Tiếp cận thông tin. - Vận dụng tri thức, thông tin. - Trao đổi, phổ biến thông tin. - Tổng hợp, xử lí các thông tin. Vận dụng bốn kĩ năng trên sẽ giúp cho người học đạt được tổ chức thực hiện kế hoạch HTTĐH. 2.3.3. Giai đoạn 3: Tự kiểm tra, đánh giá học tập Bước sau cùng của HTTĐH; là người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, biết được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. 2.3.4. Vận dụng các phương pháp tự học vào mô hình HTTĐH cho SV Mô hình HTTĐH của tác giả Hiemtra. Thông qua mô hình này, cả người học lẫn người dạy đều có thể cải tiến liên tục chất lượng cũng như trình độ của việc học. Đây là một trong số các mô hình được sử dụng rộng rãi nhất trong việc thiết kế chương trình học, thiết kế bài giảng, trong việc huấn luyện cũng như trong các hướng dẫn học tập cho các khóa học. 32 Học tập tự định hướng – nhằm phát huy tính chủ động, tích cực cho sinh viên trong bối cảnh... Sơ đồ của mô hình HTTĐH, tiếp cận theo vi mô thành tố vi mô (Hiemtra): Đánh giá nhu cầu ↓ Lập mục tiêu ↓ Xác định nội dung học tập ↓ Trải nghiệm học tập ↓ Điều khiển môi trường học tập ↓ Vai trò của Giảng viên ↓ Đánh giá học tập Hình 2. Mô hình HTTĐH của HIEMSTRA Mô hình HTTĐH được đưa ra bởi Hiemstra (1994) gồm 07 giai đoạn (hình 2), và theo phân tích của tác giả: - Giai đoạn 1: Đánh giá nhu cầu học tập hiện tại (thông qua phản hồi của GV, rà soát, đánh giá đồng đẳng). - Giai đoạn 2: Lập mục tiêu học tập mong muốn (thông qua các hoạt động đánh giá của GV hoặc SV tự đánh giá). - Giai đoạn 3: Xác định nội dung học tập (giai đoạn này cần đến sáng kiến về phong cách học và phân tích cá nhân). - Giai đoạn 4: Trải nghiệm học tập (kĩ năng, thói quen, thái độ) sử dụng các video-tapes, hội thảo, lớp học, sách vở, báo chí, phim ảnh,. . . - Giai đoạn 5: Điều khiển môi trường học tập để lĩnh hội kiến thức tốt nhất. - Giai đoạn 6: Vai trò của GV: GV có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn HTTĐH cho SV. - Giai đoạn 7: Đánh giá học tập: Bước sau cùng của (HTTĐH); là người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, biết được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục [9]. Mô hình của Hiemstra có đề cập đến việc người học tự đánh giá hiệu quả học tập, và ông coi trọng phong cách học tập cá nhân. Mặc dù cũng nhận được nhiều đồng thuận của giới chuyên môn, song cũng có những mặt hạn chế có thể dễ dàng nhận thấy như người học thiếu sự trải nghiệm trong những việc làm cụ thể, dẫn đến thiếu sự chiêm nghiệm so sánh và điều chỉnh cần thiết. Ở 3 giai đoạn đầu, mọi thao tác chỉ ở mức tư duy. Người học chỉ thực sự được tham gia vào quá trình học ở các giai đoạn cuối cùng. 33 Trương Minh Trí, Bùi Văn Hồng, Võ Thị Xuân 2.4. Phát huy tính chủ động, tích cực cho sinh viên qua hoạt động HTTĐH trong bối cảnh hội nhập 2.4.1. Thực trạng Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức trong thế kĩ XXI đòi hỏi nền giáo dục phải đổi mới nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy học ở bậc đại học phải hướng tới những phương pháp dạy học nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của SV trong quá trình học tập nhằm đào tạo ra những con người năng động, độc lập trong xã hội. Nhu cầu hội nhập quốc tế để được học hỏi, trao đổi nâng cao trình độ, năng lực của SV là chính đáng, nhưng việc hội nhập, giao lưu, học hỏi của SV đang còn thiếu sự định hướng, quản lí của các cơ quan, tổ chức. Điều này làm cho những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài rất dễ nảy sinh và lây lan trong SV Việt Nam, đặc biệt là về đạo đức, lối sống. Đây là một thách thức không nhỏ đổi với việc đào tạo và rèn luyện SV. Ở nước ta, sau gần hai thập niên thực hiện đường lối “đổi mới”, chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển,. . . ”từng bước phát triển kinh tế tri thức. . . ” đã đạt được nhiều thành quả. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, ở nước ta không chỉ có sự “đổi mới”, chuyển sang nền kinh tế thị trường, mà còn có xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa. Có thể nói bối cảnh quốc tế của đất nước đã tạo nên một thời kì mới đối với đất nước. Làm cho nền giáo dục đại học nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, mang những đặc trưng mới về sứ mạng, cơ cấu, chức năng... Những đặc trưng mới đó cũng làm nảy sinh yêu cầu phải đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy và học ở đại học. Ba yếu tố vừa nêu trên không phải bao giờ cũng có thể xem xét tách biệt rạch ròi mà đôi khi chúng đan xen vào nhau, hòa quyện với nhau [5]. Chất lượng tự học là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: người dạy, người học, quy trình dạy học, quy chế quản lí, cơ sở vật chất kĩ thuật bảo đảm cho huấn luyện, đời sống, thời gian tự học,. . . trong đó nhân tố người dạy và người học đóng vai trò quyết định. Cũng còn nhiều vấn đề bất cập và hạn chế như: (SV) chưa xác định rõ cho mình mục đích, động cơ, hứng thú trong học tập, chưa có kế hoạch tự học khoa học, lúng túng trong việc xác định một phương pháp học tập phù hợp cho mình và cho từng môn học cụ thể. Vì vậy, mô hình HTTĐH chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Qua thực trạng nêu trên, người nghiên cứu có một số ý kiến như sau: Thứ nhất: SV còn quan niệm và có thói quen học tập theo cách học phổ thông, chưa hình thành thói quen và quan niệm mới về HTTĐH. Thứ hai: Tính chủ động, tích cực trong học tập còn hạn chế. Động cơ, nhận thức khoa học chưa rõ ràng, chưa sâu sắc, động lực tự học tập chưa cao. Thứ ba: Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng yêu cầu cao việc tự học của SV chưa được thực hiện phổ biến ở các cơ sở giáo dục. 2.4.2. Các biện pháp đề xuất Từ những đặc trưng lí luận dạy học về HTTĐH nói trên, người nghiên cứu có thể rút ra một số đề xuất sau đây: Thứ nhất: Thiết kế và thực hiện bài giảng; Cách làm: GV cần tăng cường định hướng, vận dụng các phương pháp dạy, học tích cực nhằm phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo của SV trong quá trình HTTĐH. Cần nghiên cứu, lựa chọn phương pháp giảng bài có hiệu quả nhất như: phương pháp nêu vấn đề, đàm thoại, sơ đồ hóa,. . . Trong quá trình thực hiện các hình thức dạy 34 Học tập tự định hướng – nhằm phát huy tính chủ động, tích cực cho sinh viên trong bối cảnh... học, GV cần quan tâm, giúp đỡ SV phát triển các phương pháp, kĩ năng tự học, phối hợp chặt chẽ với đơn vị tăng cường công tác kiểm tra việc HTTĐH của SV. Thứ hai: Xây dựng và nâng cao kĩ năng tự học cho SV; Cách làm: Để HTTĐH có kết quả cao, trước hết mỗi SV phải hoạch định cho mình thái độ và động cơ học tập đúng đắn. Xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học tối ưu, duy trì thường xuyên, tạo được sự hứng thú học tập, đồng thời phải có phương pháp học tập phù hợp với đặc điểm của từng môn học. Qua đó phát huy tính chủ động, tích cực cho SV trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Thứ ba: Đáp ứng đủ yêu cầu về tài liệu, giáo trình cho người học tự học, tự nghiên cứu; Cách làm: Cần dành nhiều thời gian tự học cho SV, đồng thời tăng cường quản lí, kiểm tra việc chấp hành kế hoạch tự học của đơn vị và SV. Thường xuyên rút kinh nghiệm về tổ chức giờ tự học cho cả cán bộ và việc chấp hành giờ tự học của SV. GV làm tốt khâu tổ chức, hướng dẫn nội dung, phương pháp phù hợp, phổ biến kinh nghiệm, chú trọng xây dựng những tập thể SV vững mạnh để tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập và rèn luyện, HTTĐH. Thứ tư: Thực hiện nghiêm quy chế thi, kiểm tra đánh giá kết quả để có tác động tích cực và phản hồi đến việc HTTĐH của SV; Cách làm: Chất lượng tự học của SV là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó sự nổ lực của người học đóng vai trò quan trọng và quyết định. Vì vậy, mỗi SV cần phải củng cố xu hướng, động cơ học tập một cách vững chắc; đồng thời, tích cực, chủ động, tự giác rèn luyện các kĩ năng HTTĐH. Mặt khác, cơ sở giáo dục cần quan tâm hơn nữa việc chỉ đạo, hướng dẫn khâu tự học cho SV góp phần thực hiện tốt chủ trương đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Việc phát huy, tổng hợp các giải pháp trên sẽ là sự lựa chọn mang lại kết quả tốt nhất về HTTĐH, từ đó tạo nên những động lực, nền tảng cơ bản để toàn Ngành giáo dục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao và ngày càng vươn lên những tầm cao mới trước những yêu cầu của nền kinh tế đất nước trong xu thế hội nhập và phát triển. 3. Kết luận Phương pháp HTTĐH đòi hỏi SV phải năng động, tự giác trong việc học tập của mình, đồng thời phương pháp này cũng đòi hỏi ở GV năng lực chuyên môn cao để có thể giảng dạy theo nhu cầu của người học. GV cũng phải là người có năng lực tổ chức, quản lí việc dạy và học. Phương pháp HTTĐH nâng cao vai trò chủ động của người học nhưng không có nghĩa là xem nhẹ vai trò của GV. Để có động cơ tích cực học tập, SV phải tự ý thức được hoặc cần được giúp đỡ để nhận thức được rằng học trước hết là cho bản thân mình. Là người phải biết cách biến kiến thức chưa khai phá thành tài sản riêng. Ngược lại, việc dạy cần hướng vào phát triển cá nhân sao cho cá nhân đó thấy hứng thú học tập; vì biết rằng mình có thể áp dụng những kiến thức thu được ở trường học vào công việc ngoài đời và trong suốt cả cuộc đời của họ. Đồng thời, quá trình đào tạo đại học phải giúp SV biết rèn luyện việc tự học và duy trì việc học suốt đời, chứ không chỉ dừng lại sau khi tốt nghiệp đại học hoặc chỉ học khi đến trường học. Muốn vậy, phương pháp giảng dạy phải hướng tới trang bị cho người học cách học để họ có thể cập nhật kiến thức thường xuyên và liên tục. Đổi mới phương pháp giảng dạy là nhằm phát huy mạnh mẽ tính chủ động, tích cực của người học. Một trong những khó khăn bấy lâu nay của SV là việc thiếu nhận thức về quá trình học của chính mình, và ngay cả nhiều GV cũng chưa thể hiện được vai trò giúp các em nhận ra vấn đề này. Bài viết đưa đến một cái nhìn tổng quan về quá trình HTTĐH, và chỉ ra một số chiến lược về mô hình và qui trình có thể dễ dàng áp dụng trong quá trình HTTĐH của SV. HTTĐH có vai trò đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hội nhập của đất nước, khi mà lượng tri thức ngày càng tăng cao ở xã hội. HTTĐH giúp cho SV tự nắm vững, cũng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp. Phát huy tính chủ động học tập và tích cực 35 Trương Minh Trí, Bùi Văn Hồng, Võ Thị Xuân phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, hình thành năng lực, hứng thú, thói quen, phương pháp. Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, làm cơ sở cho việc học tập suốt đời. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng, 2004. Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai vấn đề và giải pháp. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Trần Lê Hữu Nghĩa, 2008. Dạy và học theo quan điểm học suốt đời, [3] Vũ Trọng Rỹ, 1994. Một số vấn đề lí luận về rèn luyện kĩ năng học tập cho học sinh. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. [4] Thái Duy Tuyên, 2001. Giáo dục học hiện đại - Những vấn đề cơ bản. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. [5] Nguyễn Thị Cẩm Vân, 2014. Triển khai dạy học tự định hướng trong đào tạo và bồi dưỡng giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học phân hoá. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Dạy học tích hợp, dạy học phân hoá ở trường trung học đáp ứng yêu cầu chương trình & sách giáo khoa sau năm 2015”, Viện Nghiên cứu Giáo dục - Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, tr. 57-62. [6] Bielaczyc, Pirolli, Brown, 1995. Training in self – explanation and self – regulation strategies: Investigating the effects of knowledge acquisition activities on problem solving. [7] Cross, 1981. Adults as Learners. San Francisco, Jossey-Bass. [8] Gibbons, M., 2002. The self-directed learning handbook: Challenging adolescent student to excel. San Francisco, Jossey-Bass Publishers, pp. 2. [9] Hiemstra, 1994. New Directions for Adult and Continuing Education, pp. 81-87. [10] Hammond, M., Collins, R., 1991. Self-directed learning: Critical practice. London: Kogan Page Limited. ABSTRACT Using Self- directed learning topromote activeness for students in the context of international integration Nowadays, the rapid development of science and technology , theexplosion of information technology, new knowledge requires people to be capable of self-learning, self-training to adapt to the fast innovation, Which promotes positive, proactive learners in the context of international integration. For the in-depth training of human resources for the country the initiative of teaching methods proved to be very suitable. The self-directed learning (SDL) method allows students to orient themselves to choose the path and direction of his destination with the support of trainers. The SDL model will certainly find consensus from community copper and good soil is powerful for anyone who has the desire for lifelong learning. Keywords: Self-directed learning, promoting proactive, positive, integration context. 36
File đính kèm:
- hoc_tap_tu_dinh_huong_nham_phat_huy_tinh_chu_dong_tich_cuc_c.pdf