Học tập chuyển hóa và một số gợi ý về sự vận dụng vào thực tiễn dạy học ở Việt Nam hiện nay
Tóm tắt: Bài viết trình bày một số vấn đề lí luận về quan điểm học tập chuyển hóa, tập
trung vào làm sáng tỏ định nghĩa, nguyên lí, đặc điểm và sự vận dụng quan điểm này
trong giáo dục STEAM. Bài viết cũng cho thấy sự vận dụng khả thi quan điểm này vào
trong thực tiễn dạy học ở nhà trường phổ thông, cách tiếp cận có thể thay thế lối dạy học
truyền thống vốn nặng tính dập khuôn, máy móc và đóng kín, khó có thể phát triển năng
lực ở người học. Để vận dụng hiệu quả quan điểm này vào trong hoạt động giáo dục và
dạy học ở Việt Nam hiện nay, tác giả bài viết khuyến nghị cần có sự phối hợp giữa các
nhà khoa học trong những nghiên cứu liên ngành mà ở đó, các bài học được xây dựng gắn
với những câu chuyện, tình huống mở, chứa đựng những xung đột mà để giải quyết
chúng, học sinh không những cần có kiến thức, kĩ năng của nhiều lĩnh vực mà còn cần có
sự cân nhắc những giá trị đạo đức để từ đó xác định được những thái độ, hành vi phù hợp
cho bản thân mình.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Học tập chuyển hóa và một số gợi ý về sự vận dụng vào thực tiễn dạy học ở Việt Nam hiện nay
ương trình giáo dục một cách toàn diện, theo hướng phát triển năng lực ở người học [4]. Những vấn đề bất cập của chương trình giáo dục trước đây và hiện hành đã được nhiều nhà khoa học, giáo dục chỉ ra. Cụ thể, một nghiên N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38 35 cứu trường hợp gắn với môn khoa học ở tiểu học của Ngô Vũ Thu Hằng và cộng sự [5] đã cho thấy hoạt động giáo dục và dạy học ở tiểu học đang tồn tại những vấn đề như sau: i. Hoạt động học tập trung chủ yếu vào việc tái hiện và ghi nhớ thông tin, dữ liệu rời rạc; ii. Học sinh phụ thuộc vào giáo viên và sách giáo khoa; iii. Kiến thức được truyền thụ một chiều và áp đặt từ phía giáo viên; iv. Học sinh chưa có sự phát huy các giá trị cá nhân trong giờ học; v. Lớp học thiếu sự bình đẳng, dân chủ trong quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh. Kết quả này thống nhất với nhiều báo cáo phản ánh thực trạng dạy học nhồi nhét, chủ yếu tập trung vào kiến thức lí thuyết, thiếu sự vận dụng và tính thực tế; học vẹt, học bằng cách ghi nhớ vẫn được coi trọng. Tại các nhà trường, cách đánh giá vẫn tập trung vào kiến thức, vào kết quả, đáp án cuối cùng. Đánh giácơ học theo tiêu chí “đúng - sai”, “đủ - thiếu” vẫn là chủ yếu. Đây được cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh gian lận trong thi cử, thể hiện qua việc phao thi vẫn còn được sử dụng khá phổ biến trong các kì thi; tình trạng học thêm, dạy thêm vẫn chưa thể dẹp bỏ triệt để [6]. Bản thân nhiều nhà quản lí giáo dục, nhà khoa học, sư phạm cũng như nhiều người dân trong xã hội đều chưa thật sự hài lòng với tình trạng giáo dục hiện tại và thể hiện mong muốn có những đổi mới mạnh mẽ hơn trong giáo dục [7]. 2.3.2. Vận dụng quan điểm học tập chuyển hóa vào đổi mới hoạt động dạy học tại nhà trường phổ thông Vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đã được thông qua tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI). Mục tiêu đổi mới giáo dục là nhằm góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất, năng lực, và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Yêu cầu về đầu ra cũng được chú trọng hơn, thay vì chỉ tập trung vào số lượng mà bỏ lơi chất lượng như trước đây. Việc đặt trọng tâm vào yêu cầu đầu ra như hiện nay đã cho thấy sự coi trọng tính thực tế trong dạy học, đòi hỏi giáo dục và dạy học phải giúp học sinh có thể vận dụng những kiến thức, kĩ năng, thái độ vào trong thực tế để thay đổi bản thân mình, đóng góp cho cộng đồng chung. Định hướng như vậy hoàn toàn phù hợp với quan điểm học tập chuyển hóa. Bản chất của thực tiễn là đa dạng và luôn thay đổi. Do đó, trong giáo dục, cách dạy học giáo điều, áp đặt là không phù hợp với thực tiễn. Giáo viên cần chấp nhận, ghi nhận sự khác biệt trong quan điểm, suy nghĩ của học sinh dựa trên những câu trả lời hợp lí được các em đưa ra. Thước đo cuối cùng không phải là đáp án cứng nhắc, tĩnh tại trên giấy mà chính là tính tích cực trong sự vận động của tư duy, suy nghĩ mà học sinh đạt được, trong thái độ, hành vi mà học sinh thực hiện được. Vì chỉ khi học sinh có được sự phát triển trong tư duy thì khi ấy các em mới có được sự phát triển lâu dài về sau, các em mới có thể tự học, tự đào tạo mình sau khi rời ghế nhà trường. Để thực hiện được điều đó, các bài học, bài tập không nên tập trung hướng vào sự tái hiện kiến thức hay đưa ra những vấn đề, tình huống đóng với những đáp án cứng nhắc bám theo cách đánh giá đúng - sai. Thay vào đó, bài học, bài tập nên có độ mở nhất định, ở đó học sinh dùng kiến thức như một công cụ trong quá trình học tập khám phá tri thức mới. Khi ấy, học tập có thể giúp học sinh là chính mình, thể hiện được chính mình, phát triển năng lực của cá nhân mình. Dưới đây là một số ví dụ cụ thể trong môn văn thể hiện rõ ràng sự khác biệt giữa cách tiếp cận đóng truyền thống và cách tiếp cận mở theo quan điểm học tập chuyển hóa. * Ví dụ 1: Miêu tả về Hà Nội. Theo cách tiếp cận truyền thống, giáo viên sẽ có xu hướng ra một đề bài “đóng” là “Em hãy tả lại vẻ đẹp của Hà Nội” và yêu cầu học sinh miêu tả những vẻ đẹp Hà Nội. Khi ấy buộc tất cả học sinh sẽ phải ca ngợi Hà Nội với những vẻ đẹp của nó, cho dù có thể có em sẽ không nghĩ như vậy. Kết quả là sẽ có nhiều bài văn giống nhau, cùng một ngôn ngữ, cùng một cảm xúc, dù thực tế không như vậy. Theo cách tiếp cận mở của quan điểm học tập chuyển hóa, giáo viên sẽ xây dựng một N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38 36 đề bài “mở” hơn, chẳng hạn hãy viết về Hà Nội trong mắt em. Khi ấy, giáo viên có thể khuyến khích học sinh miêu tả về Hà Nội và nói lên những suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình, qua đó học sinh có dịp bày tỏ những mong muốn về Hà Nội dựa trên cả cảm xúc và tư duy phản biện được phát triển từ sự suy xét thực tế. Với yếu tố riêng được đẩy mạnh như vậy, học sinh sẽ có được những bài văn khác nhau về cùng một đối tượng, rất thú vị, chẳng hạn như dưới đây: HÀ NỘI TRONG MẮT EM Bài văn 1 Mặc dù đã đi bốn phương trời nhưng em không thể nào quên nơi chôn rau cắt rốn của mình. Đó là Hà Nội, trái tim của Việt Nam. Hà Nội là nơi em sinh ra và lớn lên. Dù có ở đâu đi chăng nữa, em vẫn cảm nhận được trong từng mạch máu của mình tình yêu đối với Hà Nội. Em yêu rất nhiều thứ ở đây. Đầu tiên là Hồ Gươm. Đó là nơi có tháp Rùa nhỏ bé nằm giữa hồ. Rồi có cả đền Ngọc Sơn cổ kính đã được xây cách đây hơn 200 năm. Cầu Thê Húc đỏ như sơn duyên dáng trên mặt hồ. Với những hàng cây xanh và to, nó đã trở thành một chiếc ô khổng lồ để che cho mọi người giữa trời nắng. Nơi đây có rất nhiều người không thân thiện nhưng cũng có nhiều người hiền lành, tốt bụng. Con người ở đây rất năng động và hoạt bát. Về đêm, tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Cho nên việc tắc đường không còn gì là xa lạ cả. Em thích nhất là những khu công viên. Nơi ấy có nhiều cây xanh và những chú chim sẻ trò chuyện suốt ngày dài ở đó. Em yêu Hà Nội vô cùng. Hà Nội sẽ mãi là một phần máu thịt trong em. Ngô Bảo Diệp - Học sinh lớp 4 Bài văn 2 Trong mắt em, Hà Nội là Thủ đô đẹp nhất! Đẹp nhất nơi đây là Hồ Gươm, là nơi những vị khách du lịch không thể bỏ qua. Tiến vào Hồ Gươm, chúng ta sẽ thấy những hàng cây xanh râm mát. Đi sâu vào bên trong, ta sẽ thấy chiếc cổng dẫn vào cầu Thê Húc. Cầu Thê Húc cong như một con tôm. Đứng trên cầu, ta có thể nhìn thấy tháp Rùa cổ kính đã lâu năm. Ở nơi đó, ta cũng có thể quan sát toàn bộ mặt hồ. Đi thêm vài mét nữa, ta sẽ tới đền Ngọc Sơn. Xung quanh đền có rất nhiều cây cối, hoa cỏ. Đền Ngọc Sơn là một di tích đặc biệt của Việt Nam, tồn tại trên 500 năm rồi. Ngôi đền được sơn màu đỏ, lợp mái ngói âm dương trông rất đẹp. Trong đền có bàn thờ thần Kim Quy rất lớn. Địa điểm em thích nhất ở Hà Nội là công viên giải trí. Trẻ em rất thích chơi ở đây. Công viên giải trí có hàng cây lộc vừng với những tán hoa rủ xuống trông như những chùm pháo nhỏ. Hà Nội có các mùa với những vẻ đẹp rất đặc trưng. Vào những tháng hè, xung quanh phố Hai Bà Trưng, Bà Triệu, cây phượng nở hoa đỏ thắm như lửa, rực cháy trên cành cây xanh đỏ. Tiếng ve kêu inh ỏi. Những tháng mùa thu, ở Hà Nội, lá cây rơi như mưa, tạo cảm giác lãng mạn tới cho em. Những tháng mùa đông lạnh giá, mọi người khoác lên mình những chiếc áo xanh, đỏ, tím, vàng rất đẹp. Hà Nội với những mùa đi qua để lại trong em rất nhiều cảm xúc. Em rất yêu Hà Nội! Hồ Nguyễn Quỳnh Trang - Học sinh lớp 4 Bài văn 3 Hà Nội trong mắt em rất xấu. Người Hà Nội rất mất vệ sinh. Người thì vứt rác ra đường. Người thì cắt lá. Người thì khạc nhổ bừa bãi. Những danh lam thắng cảnh bây giờ đang xuống cấp trầm trọng. Hồ Gươm thì cụ rùa chết, nước thì đục. Cầu Thê Húc thì bạc màu sơn. Những hàng cây thì trụi trơ lá. Đường phố mù mịt khói xe... Con người Hà Nội thì rất mất ý thức, hay nói tục, không thân thiện. Khuôn mặt mọi người N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38 37 thường lộ vẻ cáu kỉnh. Mặc dù vậy, Hà Nội vẫn có nhiều cái hay. Những người bạn thân ở đây luôn sát cánh bên em, cùng em trải nghiệm những kỉ niệm vui buồn. Em nhớ những lần đi chơi Vinpearl Water Park, bọn em chơi rất vui. Sau đó bọn em còn đi ăn những món ngon như mì Ý, pizza... Ăn xong, chúng em chào tạm biệt nhau trên những con phố nhỏ. Mặc dù Hà Nội đang xuống cấp nhưng em vẫn có những người bạn tốt ở bên. Em mong Hà Nội sẽ đẹp hơn, mọi người không chửi bậy, ít hơn nữa những khuôn mặt cáu kỉnh. Em mong Hà Nội có nhiều danh lam thắng cảnh hơn nữa. Lương Minh Anh - Học sinh lớp 4 Ví dụ 2: Truyện “Sơn Tinh - Thủy Tinh”. Theo cách tiếp cận truyền thống, học sinh thường được giáo viên yêu cầu phân tích câu chuyện theo hướng ca ngợi Sơn Tinh, được hiểu như là nhân vật chính diện, đại diện cho bên Thiện. Tuy nhiên, theo cách tiếp cận mở của quan điểm học tập chuyển hóa, học sinh sẽ được khuyến khích bày tỏ những suy nghĩ riêng của mình về các nhân vật trong truyện và lựa chọn một nhân vật nào đó để ủng hộ, ca ngợi, như được thể hiện trong trích đoạn hội thoại giữa giáo viên và sinh viên sư phạm trong một giờ học dưới đây: Giáo viên: Ngày xưa phân tích chuyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, các em ca ngợi ai? Cả lớp: Sơn Tinh ạ. Giáo viên: Thế cô hỏi thật, em thích nhân vật nào nhất truyện? Vì sao? Sinh viên1: Em thích Thuỷ Tinh. Vì anh ta yêu rất mãnh liệt, quyết không từ bỏ. Rất điên. Em không thích Sơn Tinh vì được nhà vua thiên vị, ưu ái quá. Sinh viên 2: Em lại thích vua Hùng, vì biết nhìn xa trông rộng. Ông đã chọn Sơn Tinh rồi nên mới yêu cầu lễ vật như thế. Làm lãnh đạo phải có tầm nhìn chiến lược... Sinh viên 3: Em lại không thích vua Hùng, bất công với Thuỷ Tinh. Nếu đã như vậy, tổ chức thi kén rể làm gì. Ông ấy là nguyên nhân gây ra chiến tranh... Sinh viên 4: Em không thích Thuỷ Tinh. Em thấy anh ta là người tiểu nhân. Không ăn được thì đạp đổ... Không lấy được thì thôi, gây ra bao đau khổ cho người khác. Giáo viên: Còn công chúa Mị Nương thì sao? Sinh viên 5: Em không thích Mị Nương, gió chiều nào xoay chiều đó, không có chính kiến, mờ nhạt. Sống phụ thuộc, dựa dẫm... Sinh viên 6: Em lại thích Mị Nương. Em nghĩ cô ấy có hiếu với cha, nghe lời cha, cũng vì vận mệnh của đất nước... Nhiều học sinh lớn lên sau này đều thừa nhận họ từng là nạn nhân của cách dạy học truyền thống có tính dập khuôn máy móc, đóng kín trong các nhà trường phổ thông. Cách dạy học đó khiến học sinh bị chi phối nhiều bởi áp lực điểm số gắn với những cách đánh giá bám theo chuẩn tập trung vào những đáp án cứng nhắc. Với môn Văn, điều này đã gây ra hiện tượng học sinh phải làm theo văn mẫu, học thuộc lòng văn mẫu để trả bài giáo viên, tránh bị điểm thấp. Với môn Đạo đức, Giáo dục Công dân, học sinh có thể ghi nhớ và tái hiện đúng các kiến thức lí thuyết về giá trị, phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chưa thể có sự điều chỉnh phù hợp, tạo ra sự thay đổi bản chất trong nhận thức và hành vi . Cách dạy học áp đặt, một chiều, với nội dung dạy học riêng rẽ, tách rời không thúc đẩy hoạt động lập luận, phản biện đã dẫn đến hậu quả học sinh không được phát triển tư duy phản biện, tư duy sáng tạo và các giá trị cá nhân - những yếu tố quan trọng bậc nhất trong sự hình thành năng lực con người và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của nhân loại. Những gì học sinh học được khá xa rời thực tế cuộc sống và do đó các em khó có thể vận dụng, chuyển hóa chúng vào thực tế cuộc sống của bản thân sau khi rời nhà trường. Điều này thống nhất với nhận định của nhiều nhà khoa học, giáo dục cho rằng học sinh Việt Nam thường lúng túng, bị động khi thực sự bước vào cuộc sống của một người trưởng thành. N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38 38 3. Kết luận Bài viết đã trình bày một số vấn đề cơ bản về học tập chuyển hóa, bao gồm đặc điểm, nguyên lí, tác dụng và khả năng vận dụng của nó vào trong hoạt động giáo dục, dạy học ở trường phổ thông. Với những giá trị nổi bật mà học tập chuyển hóa có thể mang lại, tác giả khuyến nghị cần có thêm nhiều hơn nữa những nghiên cứu ở Việt Nam, đặc biệt là những nghiên cứu cụ thể về sự vận dụng quan điểm này vào trong hoạt động thiết kế chương trình, bài học với sự chú trọng xây dựng các tình huống có vấn đề, chứa đựng những xung đột mà để giải quyết chúng, học sinh cần có sự tìm tòi, sử dụng, liên hệ kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, hình thành nên những giá trị đạo đức phù hợp, tích cực. Để thực hiện được điều đó, sự phối hợp nghiên cứu giữa các nhà khoa học giáo dục là cần thiết. Do đó, những nghiên cứu mang tính liên ngành, liên môn cần được thúc đẩy nhiểu hơn để có thể tạo ra được những bài học có cơ sở khoa học vững chắc, tiến bộ, giúp học sinh có thể chuyển hóa được các giá trị học được từ trong lớp ra ngoài cuộc sống. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 503.01-2017.01 Tài liệu tham khảo [1] Ngô Vũ Thu Hằng, Sự phát triển của quan điểm kiến tạo xã hội về giáo dục: Nhìn từ mối liên hệ với sự phát triển của khoa học thời kì Khai sáng ở châu Âu, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội. 63(5) (2018) 146-152. https://doi.org10.18173/2354-1075.2018-0071. [2] C. Taylor, ST2EAM education in the Anthropocene: Countering the Dark Side of STEM. Presented at International Conference “The 5th International ASEAN Comparative Educational Research Network and The 1st International Annual Meeting on STEM Education, 14th - 15th Khon Kaen, Thailand, 2018. [3] United Nations, Transforming our world: the 2030 Agenda for sustainable development. Retrieved fromhttps://sustainabledevelopment.un.org/post20 15/transformingourworld/publication/, 2015. [4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể, 2017. [5] N.V.T. Hằng, M. Meijer, A.M.W. Bulte, A. Pilot, The implementation of a social constructivist approach in primary science education in Confucian heritage culture: the case of Vietnam, Cultural Studies of Science Education. 10(3) (2015) 665-693. DOI: 10.1007/s11422-014-9634-8. [6] Tran Thu Ha & Trudy Harpham, Primary education in Vietnam: Extra classes and outcomes, International Education Journal, 6(5), (2005) 626-634. [7] Nguyen Quang Kinh, Nguyen Quoc Chi, Education in Vietnam: Development history, challenges and solutions. In An African Exploration of the East Asian Education Experience, Edited by Birger Fredriksen and Tan Jee Peng, The World Bank, Washington, D. C, 2008. G kl
File đính kèm:
- hoc_tap_chuyen_hoa_va_mot_so_goi_y_ve_su_van_dung_vao_thuc_t.pdf