Hỗ trợ sản xuất trang thiết bị y tế chống dịch Covid-19 của Việt Nam: Chính sách và giải pháp phát triển sau đại dịch
Đại dịch COVID-19 diễn ra từ cuối năm 2019 đến nay đã gây ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng
đến tất cả các quốc gia trên thế giới và hiện nay vẫn đang diễn biến phức tạp. Do ảnh hưởng của
đại dịch COVID-19, nhu cầu về trang thiết bị phòng, chống dịch tăng đột biến. Các trang thiết
bị y tế (TTBYT) chống dịch bao gồm: khẩu trang, trang phục phòng, chống dịch, găng tay, sinh
phẩm chẩn đoán SARS-CoV-2, máy thở. Trước nhu cầu gia tăng mặt hàng này, Việt Nam nổi
lên là một trong những nước hàng đầu trên thế giới cung cấp TTBYT phòng, chống dịch. Những
chính sách hỗ trợ sản xuất TTBYT chống dịch của Chính phủ đang mở ra cơ hội để các doanh
nghiệp tăng cường chất lượng, năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và mở rộng xuất
khẩu. Tuy nhiên, để lĩnh vực này phát triển bền vững giai đoạn hậu COVID-19 cần có những
chính sách, chiến lược và giải pháp hỗ trợ lâu dài.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hỗ trợ sản xuất trang thiết bị y tế chống dịch Covid-19 của Việt Nam: Chính sách và giải pháp phát triển sau đại dịch
ghiệp chính tham gia xuất khẩu khẩu trang y tế các loại với số lượng là 64,7 triệu chiếc, giảm 8,7% so với số lượng xuất khẩu trong tháng 12/20201. Qua 3 đợt dịch bùng phát, nhiều doanh nghiệp trong nước đã tham gia sản xuất máy thở, Kit xét nghiệm SARS-CoV-2, khẩu trang, trang phục phòng, chống dịch. Theo Vụ Trang thiết bị và Công trình y tế (Bộ Y tế), tính đến tháng 1/2021, Việt Nam sản xuất găng tay khám Nitrile với năng lực tối đa là 60 triệu chiếc/tháng (trong trường hợp đủ nguyên liệu sản xuất). Trang phục phòng, chống dịch có 10 đơn vị sản xuất, năng lực tối đa 100 nghìn chiếc/ngày. Về máy thở, hiện Việt Nam có 2 nhà sản xuất máy thở xâm nhập, năng lực tối đa 65 nghìn chiếc/năm và 2 đơn vị sản xuất máy thở không xâm nhập, năng lực tối đa 55 nghìn chiếc/năm. Một số đơn vị trong nước cũng tham gia sản xuất sinh phẩm chẩn đoán SARS-CoV-2, gồm 2 nhà sản xuất sinh phẩm xét nghiệm, 1 nhà sản xuất sinh phẩm miễn dịch và 1 nhà sản xuất que thử SARS-CoV-2. Những trang thiết bị, vật tư này về cơ bản đủ để cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đóng góp cho thành công trong phòng, chống dịch COVID-19 của Việt Nam. 3. TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các doanh nghiệp sản xuất TTBYT phòng dịch của Việt Nam còn một số tồn tại, hạn chế sau: Nhìn trên bình diện lớn, đối với doanh nghiệp FDI, thị trường chủ yếu là thị trường nước ngoài, sản xuất quy mô công nghiệp và thụ hưởng kết quả nghiên cứu từ nước đầu tư, tận dụng nguồn lao động rẻ và các chính sách ưu đãi của nước sở tại. Đối với doanh nghiệp 100% vốn trong nước, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có những doanh nghiệp rất nhỏ, đa phần còn yếu về nghiên cứu, phát triển, trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp, chậm được đổi mới. Năng lực cạnh tranh còn thấp, kém xa các nước trong khu vực và châu lục, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu của các sản phẩm còn rất hạn chế, chủ yếu tham gia vào khâu gia công, lắp ráp. Chất lượng năng suất lao động còn thấp, có khoảng cách xa so với các nước khác. Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, tỷ lệ nội địa hóa ở mức thấp, số dự án đầu tư vào công nghệ cao chưa nhiều. 1 Tháng 1/2021, Việt Nam xuất khẩu gần 65 triệu khẩu trang y tế, Thời báo Tài chính (thoibaotaichinhvietnam.vn) truy cập ngày 09/03/2021 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 434 Trong đại dịch COVID-19 vừa qua, các doanh nghiệp sản xuất TTBYT chống dịch đã gặp phải những thách thức như: - Rủi ro và thách thức trong chuỗi cung ứng: khả năng sản xuất trong nước còn hạn chế, nguyên vật liệu chủ yếu phụ thuộc vào các nhà cung ứng Trung Quốc, dẫn đến tình trạng “đứt gãy” chuỗi cung ứng khi đối tác “nghẽn” nguồn cung. - Các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu về: nhãn sản phẩm, thiết bị, kỹ năng bán hàng và tiếp thị đặc biệt là kiểm soát chất lượng. Đa phần các chứng nhận, chứng chỉ, kết quả test tại Việt Nam, theo tiêu chuẩn Việt Nam, rất ít có test theo chuẩn quốc tế. Nhiều doanh nghiệp chưa có đủ chứng nhận CE và FDA1 để xuất khẩu, có những doanh nghiệp có chứng nhận thì tổ chức đánh giá lại chưa được công nhận rộng rãi toàn thế giới. - Sự khan hiếm đầu vào cũng đang tạo ra áp lực tăng giá đối với đầu vào như: vải không dệt tăng giá hàng tuần; chi phí vận chuyển hàng không tăng từ 3 - 4 USD/kg lên 13 USD/kg; chi phí dây chuyền sản xuất cho các sản phẩm không dệt bảo vệ cá nhân tăng từ 1 triệu USD lên 10 triệu USD; vật liệu lớp carbon cho mặt nạ phẫu thuật tăng từ 3 USD/m2 lên 13 USD/m2 (Số liệu từ Ông Nguyễn Tiến - Trưởng hợp phần kết nối thị trường - Dự án USAID LinkSME (Hoa Kỳ) trong Hội thảo “Tăng cường chất lượng, năng lực sản xuất và giải đáp, hỗ trợ xuất khẩu vật tư, trang thiết bị phòng, chống dịch COVID-19” được tổ chức tại Hà Nội ngày 23/05/2020). Có những thời điểm, thị trường hiện khan hiếm nguyên liệu đầu vào, đầu tư cho dây chuyền cũng bị đội chi phí và chi phi vận chuyển tăng gấp 3 - 4 lần trước đây, tiềm ẩn rủi ro cao. - Tình trạng “lướt sóng” khiến doanh nghiệp gặp rủi ro khi thị trường chuyển đổi sau dịch bệnh. Có thể nói, COVID-19 đã tạo ra một thị trường TTBYT chưa từng có tiền lệ. Thị trường chứng kiến sự tham gia của những công ty chưa bao giờ đặt chân vào lĩnh vực TTBYT như nhãn hàng Prada (Ý), Tập đoàn LVMH (Pháp), hãng Inditex - sở hữu nhãn hiệu Zara, Kering (tập đoàn sở hữu thương Balenciaga và Saint Laurent), Tập đoàn Coty (sở hữu thương hiệu Gucci, Burberry và Clairol) và L’Oréa hay Foxconn - hãng điện tử lớn của Đài Loan, Tập đoàn Dầu khí Sinopec, nhà sản xuất ô tô SAIC-GM-Wuling Hầu hết các công ty này chọn khẩu trang là mặt hàng sản xuất chủ yếu. Điều này dễ hiểu bởi khẩu trang là sản phẩm được sử dụng đại trà trong cộng đồng nên nhu cầu thị trường cao hơn hẳn các thiết bị bảo hộ y tế khác trong khi chi phí đầu tư máy móc cũng thấp hơn, không chỉ phù hợp với nhà sản xuất lớn về trang thiết bị y tế mà còn là cơ hội cho các doanh nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực TTBYT. Các doanh nghiệp “tay ngang” có lợi thế trong giai đoạn nhu cầu thị trường tăng cao nhờ linh hoạt thay đổi để đáp ứng nhanh so với các nhà sản xuất lớn vốn không thể thay đổi dễ dàng. Đối với Việt Nam, sản xuất TTBYT trở thành “cứu cánh” của doanh nghiệp dệt may, bù đắp cho các đơn hàng may xuất khẩu bị đối tác hoãn, hủy. Đối với Công ty May 10, các đơn xuất khẩu khẩu trang chiếm gần 30% doanh thu trong năm 2020, góp phần đảm bảo đủ việc làm cho gần 12 nghìn lao động. Tương tự với Công ty May Thái Nguyên (TNG), doanh thu tiêu thụ nội địa quý I đạt hơn 63 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ và khẩu trang là mặt hàng giúp công ty bù 1 Thị trường châu Âu với nhãn CE (Conformité Européenne), thị trường Mỹ và các nước chấp nhận tiêu chuẩn Mỹ FDA (FDA - Food and Drug Administration). KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 435 đắp chính. TNG thu 288 tỷ đồng trong tháng 2/2020, tăng 65% so với cùng kỳ, phần lớn đến từ đơn hàng khẩu trang. Xuất khẩu chiếm 76% trong cơ cấu doanh thu, còn lại tiêu thụ tại thị trường nội địa. Đối với các doanh nghiệp TTBYT trong nước, đại dịch COVID-19 là cơ hội để tăng cường năng lực sản xuất, phát triển thương hiệu, chiếm lĩnh thị phần. Với khả năng sẵn có, Việt Nam đang là một trong những quốc gia hàng đầu về cung cấp TTBYT của thế giới. Các doanh nghiệp có thể tranh thủ khai thác thị trường trong thời gian dịch bệnh, nhưng để coi đây là một sản phẩm lâu dài, đầu tư quy mô lớn thì cần thận trọng tính toán nhu cầu thị trường thực. Khi dịch bệnh suy giảm, đại dịch qua đi, nhu cầu thị trường cũng giảm theo, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ cao hơn, tiêu chuẩn siết chặt hơn, các doanh nghiệp “lướt sóng” vì nhu cầu ngắn hạn sẽ gặp khó khăn. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do: + Chất lượng lao động ngành công nghiệp TTBYT chưa đáp ứng được yêu cầu. + Hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ kém phát triển; mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế (mối liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp nội địa còn lỏng lẻo; trong mỗi một chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp Việt chỉ tham gia ở những khâu tạo giá trị thấp. + Chưa hình thành được các tập đoàn công nghiệp TTBYT có quy mô tầm cỡ khu vực để tạo hiệu ứng lan tỏa cho công nghiệp Việt Nam. + Nguyên liệu phụ thuộc nước ngoài, đầu ra không bền vững, khó cạnh tranh với sản phẩm nhập ngoại. + Chính sách phát triển các doanh nghiệp TTBYT còn hạn chế. 4. CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ SẢN XUẤT TRANG THIẾT BỊ Y TẾ CHỐNG DỊCH COVID-19 VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG SAU ĐẠI DỊCH Bảng 1. Các chính sách hỗ trợ sản xuất TTBYT chống dịch COVID-19 Quy định/Chính sách Nội dung Quyết định số 155/QĐ-BTC ngày 07/02/2020 Ban hành Danh mục các mặt hàng được miễn thuế nhập khẩu phục vụ phòng, chống dịch trong đó có nguyên liệu sản xuất khẩu trang y tế Quyết định số 436/QĐ-BTC ngày 27/3/2020 Bổ sung mặt hàng được miễn thuế nhập khẩu trong đó có vải không dệt để sản xuất bộ trang phục phòng, chống dịch Báo cáo Thủ tướng Chính phủ Miễn thuế nguyên liệu để sản xuất máy thở phòng, chống dịch Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 29/4/2020 Bỏ quy định áp dụng chế độ cấp giấy phép xuất khẩu đối với mặt hàng khẩu trang y tế theo quy định tại Nghị quyết số 20/NQ-CP ngày 28/02/2020 của Chính phủ Công văn số 250/BTY-TB-CT Triển khai Nghị quyết số 60/CP-NQ về công khai danh sách, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 436 Quy định/Chính sách Nội dung Công văn số 2848/TCQH-GSQ Hướng dẫn thủ tục xuất khẩu khẩu trang y tế Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/3/2020 Về nhiệm vụ giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh Bộ Y tế Đề án phát triển công nghiệp TTBYT sản xuất trong nước đến năm 2030 và tầm nhìn 2045 Nguồn: Tác giả tổng hợp Các chính sách hiện hành đã quy định khá đầy đủ cả về diện chính sách và mức độ ưu đãi đối với lĩnh vực sản xuất TTBYT nói chung và TTBYT chống dịch nói riêng. Tuy nhiên, thực tế sản xuất TTBYT chống dịch thời gian qua cho thấy: + Hệ thống pháp luật về TTBYT chưa hoàn thiện. + Chưa xác định được các mặt hàng TTBYT trong nước cần ưu tiên đầu tư nghiên cứu và sản xuất trên cơ sở khảo sát, đánh giá kỹ lưỡng các điều kiện trong và ngoài nước. + Còn yếu về năng lực dự báo nhu cầu TTBYT của thị trường, cả về cơ cấu và số lượng theo chu kỳ ngắn và dài hạn, cũng như cơ quan quản lý chưa có văn hóa định kỳ cập nhật danh mục các mặt hàng TTBYT sản xuất trong nước, trong khi đây là những thông tin vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp trước khi quyết định đầu tư cho nghiên cứu, sản xuất. + Còn thiếu rất nhiều các tiêu chuẩn trong hệ thống quản lý chất lượng về TTBYT, thiếu hệ thống các cơ sở đo lường, kiểm định TTBYT, các quy trình kỹ thuật kiểm định + Còn thiếu vắng các chính sách thúc đẩy các hoạt động hỗ trợ chuyển giao công nghệ tăng khả năng tiếp cận thị trường và các hoạt động hỗ trợ thương mại hóa các đổi mới cũng như tài trợ cho các nghiên cứu đáp ứng nhu cầu trước mắt và chiến lược của ngành TTBYT. Do vậy, hệ thống các chính sách hỗ trợ cho sản xuất trong nước cần tiếp tục được hoàn thiện để tạo động lực cho sản xuất sau đại dịch. • Hoàn thiện chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước - Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất trong nước, thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm sản xuất trong nước từ kết quả nghiên cứu, chế tạo, ứng dụng và phát triển sản xuất trong nước. - Xây dựng, ban hành quy định về mua sắm TTBYT phù hợp với trình độ sử dụng và nhu cầu của từng tuyến y tế, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về chủng loại, cấu hình, nước sản xuất của trang thiết bị cho người đứng đầu các tổ chức sử dụng TTBYT, ưu tiên TTBYT sản xuất trong nước. - Xây dựng, ban hành hướng dẫn các cơ sở y tế trong hoạt động kiểm định, bảo dưỡng, sửa chữa các TTBYT. - Xây dựng, ban hành tiêu chuẩn quốc gia về TTBYT; thực hiện chuẩn hóa năng lực, hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ thử nghiệm về TTBYT. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 437 • Tăng cường phát triển hệ thống thử nghiệm về TTBYT - Xây dựng, phát triển hệ thống thử nghiệm về TTBYT hiện đại, đồng bộ, đáp ứng hội nhập quốc tế. - Duy trì hệ thống thử nghiệm TTBYT, đảm bảo độ chính xác và tính liên kết chuẩn tới chuẩn quốc tế. - Bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ thử nghiệm về TTBYT ở trong và ngoài nước cho các cán bộ nghiệp vụ của các bộ ngành, địa phương, các tổ chức cung cấp dịch vụ thử nghiệm và doanh nghiệp. • Xây dựng cơ sở hạ tầng khoa học kỹ thuật - Tạo điều kiện cho địa phương thành lập các khu công nghiệp kỹ thuật y tế, hình thành các khu nghiên cứu, khu chế xuất kỹ thuật cao có sự liên kết với các lĩnh vực khoa học công nghệ của các ngành/lĩnh vực khác có liên quan. - Thành lập các Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp công nghệ (CIC). • Tăng cường hợp tác quốc tế - Đẩy mạnh trao đổi, hợp tác nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ với các quốc gia trong khu vực và thế giới. - Khuyến khích, thu hút doanh nghiệp FDI liên doanh với các công ty trong nước; nâng tỷ lệ nội địa hóa, ngăn chặn đầu tư không thân thiện với môi trường. - Mở rộng tham gia đàm phán, ký kết các thỏa thuận song phương và đa phương nhằm thừa nhận lẫn nhau, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại. • Đẩy mạnh công tác truyền thông - Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và xã hội về hoạt động sản xuất TTBYT. - Đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng về tính ưu việt, chất lượng, hiệu quả TTBYT và năng lực sản xuất của các tổ chức nghiên cứu, chế tạo trang thiết bị trong nước, từ đó tạo thói quen sử dụng TTBYT sản xuất trong nước thay vì sản phẩm nhập ngoại. • Tập trung nguồn lực và chỉ đạo thực hiện một số dự án trọng điểm - Dự án xây dựng chính sách và hành lang pháp lý thúc đẩy nghiên cứu, sản xuất TTBYT trong nước. - Dự án xây dựng hệ thống tiêu chuẩn - đo lường chất lượng. - Dự án nghiên cứu, sản xuất TTBYT trong nước. - Dự án xây dựng khu công nghiệp nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất TTBYT trong nước. - Dự án phát triển nguồn nhân lực về TTBYT. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 438 5. KẾT LUẬN TTBYT là mặt hàng có tính chất đặc biệt do liên quan tới sức khỏe con người. Trong dịch bệnh, sản xuất TTBYT không chỉ vì lợi nhuận mà còn là uy tín của doanh nghiệp, thậm chí là uy tín của quốc gia. Việt Nam có tiềm năng về sản xuất TTBYT và đang là quốc gia đi đầu về xuất khẩu trang thiết bị phòng, chống dịch trong bối cảnh đại dịch COVID đang diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong 200 doanh nghiệp sản xuất TTBYT mới có 90 đơn vị đã công bố đủ điều kiện sản xuất và đã công bố tiêu chuẩn áp dụng cho loại A, tổng năng lực sản xuất: 63 triệu chiếc/ngày; trên 90% TTBYT sử dụng tại các cơ sở y tế chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài. Để ngành công nghiệp TTBYT phát triển bền vững sau đại địch, bên cạnh những giải pháp hỗ trợ ngắn hạn, cần xây dựng và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cụ thể cho các nhóm sản phẩm này, nâng cao dần tỷ trọng hàng hóa sản xuất trong nước và tiến tới tham gia xuất khẩu phục vụ cho yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế, Đề án phát triển công nghiệp TTBYT sản xuất trong nước đến năm 2030 và tầm nhìn 2045. 2. Tài liệu Hội thảo “Tăng cường chất lượng, năng lực sản xuất và giải đáp, hỗ trợ xuất khẩu vật tư, trang thiết bị phòng, chống dịch COVID-19”, Hà Nội ngày 23/5/2020. 3. https://moh.gov.vn/ 4. https://www.customs.gov.vn/default.aspx 5. https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217 6. worldometer.info 7. www.fitchsolutions.com
File đính kèm:
- ho_tro_san_xuat_trang_thiet_bi_y_te_chong_dich_covid_19_cua.pdf