Hồ Chí Ninh - Người vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
Tóm tắt
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của
Việt Nam, người có công lao to lớn, quan trọng trong việc vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của Người thể hiện trên nhiều bình diện,
nhiều chủ đề. Bài viết trực tiếp tiếp cận sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin của Người vào Việt Nam trên các vấn đề: Cách mạng thuộc
địa; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về đại đoàn kết; về Đảng Cộng sản; về
lựa chọn Nhà nước.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Hồ Chí Ninh - Người vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hồ Chí Ninh - Người vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
ch mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ đƣợc tự do”3. Tại sao Hồ Chí Minh lại có luận điểm sáng tạo nhƣ vậy? Đơn giản vì hơn ai hết Ngƣời hiểu sâu sắc vấn đề dân tộc thuộc địa. Ngƣời phát hiện ra thuộc địa có một vị tri, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, đây là nơi duy trì sự tồn tại, sự phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh chỉ ra: “ nọc độc và sức sống của con rắn độc tƣ bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”4. Bên cạnh đó, thuộc địa cũng là nơi bị áp bức nặng nề nhất nên tinh thần 3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.287. 4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.296. 287| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đấu tranh cách mạng của nhân dân th uộc địa sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, gay gắt hơn ở các nƣớc chính quốc. Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lƣợng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tƣ bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những ngƣời anh em mình ở phƣơng Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”5. Thuộc địa cũng là nơi chất chứa nhiều mâu thuẫn của thời đại hơn ở chính quốc. Ở các nƣớc thuộc địa, chủ nghĩa đề quốc không chỉ đối mặt với một giai ắp mà là cả một dân tộc với ý thức dân tộc quật cƣờng. Do đó, thuộc địa là khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc. Vì thế, cách mạng nổ ra ở đây dễ thành công hơn ở chính quốc. Nhận định đầu tiên của Hồ Chí Minh về vai trò và khả năng của cách mạng thuộc địa là công trình phân tích về thuộc địa vƣợt xa tất cả những gì mà các nhà mácxít đã nói đến thời điểm đó. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã soạn thảo một trƣờng lý luận đầy uy tín không thể chối cãi đƣợc để giải phóng các dân tộc bị áp bức. 2.2. Nét riêng không hoàn toàn rập khuôn chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh Trong nửa đầu của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội tồn tại trên cả bình diện lý luận và thực tiễn nhƣng chủ yếu là ở châu Âu. Theo Mác và Ănghen, chủ nghĩa xã hội chỉ ra đời ở những nƣớc tƣ bản phát triển, Lênin tiếp tục khẳng định: chủ nghĩa xã hội thắng lợi ít nhất cũng phải ở một nƣớc tƣ bản (kể cả tƣ bản trung bình)6. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, châu Âu không phải là toàn nhân loại và “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”7. Đây chính là nét sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Cơ sở của luận điểm này là vì ở các nƣớc châu Á, từ rất sớm (sớm hơn châu Âu) đã hình thành những quan điểm mang tính chất xã hội chủ nghĩa, tƣơng đồng, gần gũi với chủ nghĩa xã hội hiện đại nhƣ chế độ công điền, tƣ tƣởng dân vi quý, sự bác ái, công bằng tài sản, xã hội đại đồng. Hơn nữa, ở các nƣớc châu Á, do nền sản xuất nông nghiệp nên từ rất sớm con ngƣời đã có nhu cầu hợp tác, liên kết với nhau trong quá trình sản xuất. Đây là lý do tại sao sau miền Bắc khi giành độc lập lại tiếp tục tiến lên xây dựng ngay chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên, Hồ Chí Minh và Đảng ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lƣợc vừa chống Mỹ, cứu nƣớc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự sáng tạo này của Hồ Chí Minh đã đƣợc một giáo sƣ Nhật 5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.48. 6 Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, tr.189. 7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47. |288 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) Bản đánh giá là một trong những cống hiến quan trọng và Đảng Lao động Việt Nam là đảng đầu tiên trong đảng mácxít trên thế giới áp dụng lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Lý luận về chủ nghĩa xã hội quả là một viên ngọc quý nhất đƣợc khám phá trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ đặc điểm riêng của nƣớc ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu, chƣa trải qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa lại bị chiến tranh tàn phá, đất nƣớc còn chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác, ta có thể đi con đƣờng khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”8. Con đƣờng Hồ Chí Minh lựa chọn là con đƣờng tiến hành công nghiệp hóa tự giác, chọn điểm khởi đầu từ phát triển nông nghiệp toàn diện nhằm đảm bảo lƣơng thực, thực phẩm cho nhân dân, sau đó phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của ngƣời dân rồi cuối cùng mới đến công nghiệp nặng. Bƣớc đi để thực hiện sự nghiệp này là cùng với việc phát triển tuần tự, dần dần, đảm bảo lôgíc khách quan, không đốt cháy giai đoạn là việc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội đảm bảo yêu cầu hợp quy luật và hợp lòng dân. Đây là nét đặc sắc riêng trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, là con đƣờng khác đi lên chủ nghĩa xã hội qua lăng kính của chủ nghĩa Mác - Lênin. 2.3. Điểm mới trong tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh Sẽ không có gì là sai khi khẳng định rằng vấn đề đoàn kết đã đƣợc các bậc tiền bối trƣớc Hồ Chí Minh bán đến một cách thấu đáo. Thắng lợi của Lê Lợi, Quang Trung, là những bài học to lớn về đoàn kết trong truyền thống dân tộc. Thắng lợi của cách mạng tháng Mƣời Nga là biểu hiện trọn vẹn sức mạnh đại đoàn kết. Tuy nhiên, đến Hồ Chí Minh tƣ tƣởng đại đoàn kết vẫn mang một luồng gió mới. Ngƣời đã bù đắp những thiếu hụt về vấn đề đoàn kết trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là cơ sở lịch sử thuộc địa và phƣơng Đông. Khẩu hiệu đoàn kết của Mác: Vô sản tất cả các nƣớc đoàn kết lại, khẩu hiệu của Lênin: Vô sản tất cả các nƣớc và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Nhƣ vậy, Mác - Lênin chỉ thấy đƣợc mối liên minh giữa giai cấp vô sản với các dân tộc thuộc địa chứ không am tƣờng thuộc địa nhƣ Hồ Chí Minh. Cách mạng tháng Mƣời Nga chỉ đoàn kết công - nông - binh mà thiếu vắng bóng địa chủ, tƣ sản. Hồ Chí Minh đã lấy công - nông làm gốc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tất cả những ai tự nhận mình là con Lạc, cháu Hồng tức con dân nƣớc Việt, có lòng yêu nƣớc Việt, có kẻ thù chung, có khát vọng giành độc lập dân tộc, tự do cho đất nƣớc đều tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân. Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng 8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,tr.391. 289| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam không tiêu diệt tầng lớp nào thậm chí còn sử dụng những quan lại phong kiến yêu nƣớc tham gia Mặt trận Việt Minh chẳng hạn nhƣ Bảo Đại đƣợc mới là Cố vấn Chính phủ lâm thời, Huỳnh Thúc Kháng đƣợc cử làm Bộ trƣởng Bộ Nội vụ. Sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh về đoàn kết đã khắc phục đƣợc sự thiếu hụt về lý luận khoa học trong tƣ tƣởng đoàn kết truyền thống. Nếu chỉ có lòng yêu nƣớc, khát vọng độc lập, tự do, ý chí căm thù giặc thôi thì chƣa đủ làm nên những thắng lợi vĩ đại mà cần phải có một lý luận cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đƣờng. 2.4. Những sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Lịch sử dân tộc Việt Nam mãi mãi không bao giờ quên công lao to lớn của Hồ Chí Minh trong việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Bƣớc chuẩn bị về tƣ tƣởng, chính trị chính là sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, sự chuẩn bị đƣờng lối cách mạng thông qua tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và tác phẩm Đường Kách mệnh. Điểm đáng chú ý nhất là sự ra đời Hội Việt Nam cách mạng thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng. Hồ Chí Minh đã xây dựng một hệ thống lý luận mang dấu ấn học thuyết Mác - Lênin và tƣ tƣởng của Ngƣời để truyền bá vào Việt Nam, đó là: Bản chất của chủ nghĩa thực dân, mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản, vai trò Đảng, lực lƣợng cách mạng, chiến lƣợc và con đƣờng cách mạng Nhờ đó mà phong trào công nhân đã chuyển từ tự phát lên tự giác, phong trào yêu nƣớc dần dần chuyển sáng phong trào yêu nƣớc triệt để. Nhƣ vậy, với quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam thì thực chất sự ra đời của Đảng ở Việt Nam, ngoài yếu tố chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân còn có cả phong trào yêu nƣớc. Tầm nhìn của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng là ở chỗ thấy đƣợc vai trò to lớn của phong trào yêu nƣớc - một yếu tố trƣờng tồn trong lịch sử dân tộc. Ở Việt Nam, ngay cả khi có phong trào công nhân thì phong trào yêu nƣớc vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Hồ Chí Minh đã thổi hồn cho phong trào yêu nƣớc Việt Nam bằng lý luận khoa học mới (Chủ nghĩa Mác - Lênin), đã biến nó thành phong trào yêu nƣớc theo khuynh hƣớng vô sản. Nhƣ vậy, phong trào yêu nƣớc chính là một yếu tố mới tham gia cầu thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là điểm sáng tạo đầu tiên về Đảng Cộng sản của Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là chìa khóa để mở cửa vào kho tàng sáng tạo của Ngƣời. Hai là, khi bàn đến bản chất giai cấp của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng là của giai cấp công nhân mà còn là đảng của dân tộc Việt Nam. Vế thứ nhất là nói theo quan điểm của chủ nghĩa Mác. Đảng của giai cấp công nhân tất yếu phải mang bản chất giai cấp công nhân. Tuy nhiên, vế thứ hai mới là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh. “Đảng |290 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) là của dân tộc Việt Nam” cách nói này ngầm hiểu: Thứ nhất, thành phần của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân mà còn là tất cả các giai cấp, tầng lớp trong cộng đồng dân tộc Việt Nam; Thứ hai, Đảng không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà còn là vì lợi ích của cả dân tộc; Thứ ba, Đảng gần gũi trong lòng mọi ngƣời dân Việt Nam. Ai cũng có quyền tự hào gọi là “Đảng ta”. Có lẽ chỉ có Hồ Chí Minh mới có đƣợc một tƣ duy về yếu tố dân tộc trong Đảng nhất quán và sâu sắc đến thế. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động và ở cả dân tộc Việt Nam. Ba là, thiên tài Hồ Chí Minh chính là sự cảnh báo sớm về nguy cơ của một Đảng cầm quyền. Sau khi giành đƣợc chính quyền, Ngƣời luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên: vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đày tớ trung thành của nhân dân. Đảng từ chỗ mất chính quyền đến giành đƣợc chính quyền và xây dựng chính quyền mới thực sự là một thời kỳ “lý luận biến thành thực tiễn” và sự thoái hóa, biến chất trong Đảng là không thể tránh khỏi. Theo Ngƣời, khi Đảng có quyền lực chính trị thì mỗi cán bộ, đảng viên ít hay nhiều đều có chút quyền hành và dễ dẫn đến lộng quyền, chuyên quyền. Theo đó, cán bộ, đảng viên dễ mắc các căn bệnh quan liêu, trái phép, cậy thế, hủ hóa, kiêu ngạo, xu nịnh, a dua, dìm ngƣời tài giỏi, ghét ngƣời chính trực Vì thế, Đảng phải nâng cao ý thức phục vụ nhân dân ngang tầm quyền lực của Đảng. Có lẽ vì thế mà trong “Di chúc” điều đầu tiên mà Hồ Chí Minh căn dặn là về Đảng. Tầm nhìn xa trông rộng của Hồ Chí Minh chính là đã phát hiện ra mầm mống, căn bệnh trong cơ thể của Đảng nhƣng tầm vĩ đại của Ngƣời lại chính là việc dám đối mặt với những căn bệnh đó để chữa trị. Có bênh mà giấu bệnh, sợ thuốc là rất nguy hiểm, phải có gan uống thuốc đắng thì mới cắt đƣợc ung nhọt trong cơ thể: “Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Nhƣ thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”9. 2.5. Nét độc đáo trong việc lựa chọn Nhà nước Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trên cơ sở tiếp thu chọn lọc những tƣ tƣởng tích cực của nhà nƣớc thực dân phong kiến ở Việt Nam, nhà nƣớc dân chủ tƣ sản ở phƣơng Tây, Hồ Chí Minh bắt tay vào xây dựng nhà nƣớc mới, kết hợp dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là nhấn mạnh vai trò chủ động của nhân dân trong nhà nƣớc. Trí tuệ của nhà nƣớc là từ sáng kiến của nhân dân. Dân 9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.301. 291| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam chủ đại diện không hoàn toàn giống mô hình dân chủ Xô viết của Lênin - một nền dân chủ đại diện mà cơ sở bầu cử là những nơi sản xuất, những nơi công tác chứ không phải những nơi sinh sống của dân cƣ. Mô hình Xô viết là bầu các Xô viết theo hình tháp còn Hồ Chí Minh tổ chức bầu cử theo mô hình bầu cử đại diện của phƣơng Tây. Hồ Chí Minh cũng chủ trƣơng xây dựng chính phủ công - nông - binh theo mô hình Xô Viết. Tuy nhiên, xô viết công nông chủ trƣơng loại bỏ tƣ sản, địa chủ thì cơ sở xã hội của nhà nƣớc mới ở Việt Nam lại là toàn dân tộc, lấy liên minh công - nông làm gốc. Nhà nƣớc đó là nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Nhà nƣớc mang bản chất dân chủ triệt để. Hồ Chí Minh đã thực hiện quản lý đất nƣớc theo công nghệ ba khẩu: dân - dân chủ - dân vận. đây chính là sự sáng tạo hoàn toàn không sao chép kiểu nhà nƣớc công - nông - binh của Lênin. III. KẾT LUẬN Tóm lại, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh có cái mới, có cái dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhƣng tất cả đều tạo nên sắc thái,chính kiến, bản sắc Hồ Chí Minh. Những phát triển sáng tạo kể trên là cực kỳ cần thiết và có giá trị to lớn trong mọi thời kỳ cách mạng, nhất là khi giờ đây nhân loại đang bƣớc vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên toàn cầu hóa. Mọi sao chép, rập khuôn, máy móc, giáo điều đều là trở lực của tiến bộ và phát triển. Tròn 100 năm đã trôi qua (tính từ khi Hồ Chí Minh bắt gặp ánh sáng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin) di sản tƣ tƣởng của Ngƣời đã, đang và mãi là nền tảng cho sự phát triển hôm nay và mai sau. Nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, cần phải nhận thức đƣợc rằng nhờ ánh sáng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trên nền tảng thực tiễn Việt Nam đã đƣa Ngƣời đến những sáng tạo vô giá, kết tinh thành minh triết Hồ Chí Minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.127. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.83. 3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47; tr.48; tr.296. 4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.287. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.301. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,tr.391. 7. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, tr.189. |292
File đính kèm:
- ho_chi_ninh_nguoi_van_dung_va_phat_trien_sang_tao_chu_nghia.pdf