Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc

Tóm tắt

Năm 1920, Hồ Chí Minh bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua bản Sơ thảo

lần thứ nhất những vấn đề về dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin. Giây phút ấy đã

làm cho Hồ Chí Minh hết sức xúc động và sung sướng vì đã tìm thấy con đường

hồi sinh cho dân tộc. Để phù hợp hơn với hoàn cảnh của Việt Nam lúc bấy giờ, Hồ

Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của V.I Lênin, trong đó có

vấn đề dân tộc. Người tập trung lý giải vấn đề dân tộc thuộc địa, chỉ rõ thực chất

của vấn đề ấy là đánh đuổi chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc và đi lên chủ

nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa là độc lập, tự do. Hồ

Chí Minh cũng phát hiện ra sức mạnh to lớn ở các nước thuộc địa là chủ nghĩa dân

tộc chân chính. Đặc trưng cơ bản của vấn đề độc lập dân tộc ở thuộc địa là: độc lập

dân tộc phải là độc lập thật sự; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc trang 1

Trang 1

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc trang 2

Trang 2

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc trang 3

Trang 3

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc trang 4

Trang 4

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc trang 5

Trang 5

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc trang 6

Trang 6

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc trang 7

Trang 7

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 3160
Bạn đang xem tài liệu "Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc
sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, nhƣng quan điểm của Ngƣời có nhiều khác biệt. Ngƣời 
phê phán một số Đảng Cộng sản trên thế giới không quan tâm đến cách mạng thuộc địa 
và có cái nhìn lệch lạc về ngƣời dân, coi “ngƣời bản xứ là một hạng ngƣời thấp kém, 
không đáng kể, không có khả năng để hiểu biết và lại càng không có khả năng hoạt 
động”2. 
1 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.199. 
2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.81. 
 187| 
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam 
 Hồ Chí Minh cho rằng, nhu cầu bức thiết, trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài của các dân 
tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc 
lập, tự do cho dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm Bản án 
chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh, đặc biệt là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của 
Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã minh chứng rõ cho quan điểm này: “Chúng ta đã 
hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì 
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít ngƣời. Thế mới khỏi 
hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới đƣợc hạnh phúc” - Đường Kách mệnh; “làm tƣ 
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” - Cương lĩnh 
chính trị đầu tiên 
 Nhƣ vậy, các nhà yêu nƣớc tiền bối đã dựa vào chủ nghĩa phong kiến, tƣ bản để 
giải quyết vấn đề dân tộc thuộc địa; còn Quốc tế Cộng sản, V.I. Lênin hƣớng cách 
mạng thuộc địa tập trung vào vấn đề đấu tranh giai cấp (chống chủ nghĩa tƣ bản, chủ 
nghĩa đế quốc). Rút kinh nghiệm từ những sai lầm của những nhà cách mạng đi trƣớc, 
kế thừa, phát triển tƣ tƣởng của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định một cách rõ 
ràng: thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập, 
tự do cho dân tộc. Cụ thể hơn, kẻ thù chính, trực tiếp của các dân tộc thuộc địa là chủ 
nghĩa thực dân chứ không phải là chủ nghĩa tƣ bản, chủ nghĩa đế quốc nói chung nhƣ 
C. Mác và V.I. Lênin quan niệm. Theo Hồ Chí Minh “chủ nghĩa thực dân không chỉ là 
kẻ thù trực tiếp, nguy hại nhất của các thuộc địa mà còn là kẻ thù chung của giai cấp 
công nhân và nhân dân lao động trên thế giới”; mâu thuẫn nổi bật, quan trọng nhất ở xã 
hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa thực dân; nhiệm vụ 
hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc; mục tiêu của cách mạng 
thuộc địa là chủ nghĩa xã hội. 
 Nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa. Lần đầu tiên trong lịch sử, V.I. Lênin 
đã nhắc và nhấn mạnh đến vấn đề thuộc địa, đến quyền bình đẳng, tự quyết của các dân 
tộc, vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa “Giải phóng dân tộc 
thuộc địa không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là điều kiện bảo đảm cho sự thắng 
lợi của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và những ngƣời cộng sản ở chính quốc”; 
đồng thời, cũng chỉ rõ, cách mạng giải phóng dân tộc các nƣớc thuộc địa muốn thắng 
lợi cần phải hƣớng theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Nói cách khác, cách mạng vô 
sản ở chính quốc và giải phóng dân tộc ở thuộc địa có mối quan hệ khăng khít, biện 
chứng, hỗ trợ nhau phát triển, thắng lợi. Về cơ bản, V.I. Lênin đánh giá cao vai trò của 
|188 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; đồng thời, có những chỉ dẫn mang tính vạch 
đƣờng cho sự thắng lợi của cách mạng thuộc địa “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản 
các nƣớc tiên tiến, các nƣớc lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết và qua những giai đoạn 
phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển 
tƣ bản chủ nghĩa”3. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, tƣ tƣởng của V.I. Lênin đã có 
sự ảnh hƣởng, tác động mạnh mẽ, giúp cho Hồ Chí Minh nhận thức rõ đƣợc điều cốt 
yếu mà Ngƣời trăn trở bấy lâu: “muốn cứu nƣớc, giải phóng dân tộc, không có con 
đƣờng nào khác ngoài con đƣờng cách mạng vô sản”. 
 Đối với Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa là “độc lập 
dân tộc”. Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (năm 1930) đã chủ trƣơng: “làm tƣ 
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ 
hàng đầu của tƣ sản dân quyền cách mạng là: “Ðánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn 
phong kiến, làm cho nƣớc Nam đƣợc hoàn toàn độc lập”. Cách mạng tƣ sản dân quyền 
sẽ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc là đánh đuổi đế quốc, thực dân giành độc lập dân 
tộc; đánh đổ phong kiến tay sai giành ruộng đất cho dây cày nghèo. Trong hai nhiệm 
vụ ấy, giải phóng dân tộc cần đƣợc ƣu tiên và đặt lên hàng đầu, đặc biệt khi điều kiện 
thuận lợi, thời cơ chín muồi. Năm 1941, chủ trì Hội nghị Trung ƣơng Đảng lần thứ 
Tám, Ngƣời đã cùng với Đảng ta đã đƣa ra tƣ tƣởng chỉ đạo quyết liệt: “Trong lúc này, 
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dƣới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của 
dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết đƣợc vấn đề dân tộc giải phóng, không 
đòi lại đƣợc độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân 
tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm 
cũng không đòi lại đƣợc”4. 
 Chủ nghĩa dân tộc. Đế quốc, thực dân cũng đề cao chủ nghĩa dân tộc, nhƣng đó là 
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, “sô vanh”. Theo Võ Nguyên Giáp, chủ nghĩa dân 
tộc ở thuộc địa theo quan điểm của Hồ Chí Minh “hoàn toàn không phải là thứ chủ 
nghĩa dân tộc phong kiến, tƣ sản hay của Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân 
tộc cải lƣơng), mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trƣờng chủ nghĩa Mác - 
Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hƣớng tới triệt để giải phóng dân 
tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con ngƣời”5. Mặc dù đề cao vấn đề giải phóng dân 
3 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.295. 
4 Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
tr.112-113. 
5 Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.91. 
 189| 
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam 
tộc, lợi ích của dân tộc, nhƣng Hồ Chí Minh coi thắng lợi của dân tộc mình cũng là 
thắng lợi của các dân tộc bị áp khác, đề cao lợi ích của dân tộc mình, nhƣng không xâm 
phạm, chà đạp lên lợi ích chính đáng của các dân tộc khác và góp phần vào thắng lợi 
chung của cách mạng thế giới “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm 
rồi, phần lớn thế giới sẽ xô viết hóa và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến 
thành chủ nghĩa quốc tế” 6. Đế quốc, thực dân là kẻ thù của dân tộc và giai cấp, tiêu diệt 
đƣợc kẻ thù chung ấy, không chỉ có riêng dân tộc mà các giai cấp bị thống trị, bóc lột 
tất yếu sẽ đƣợc giải phóng và đòi lại đƣợc quyền lợi của giai cấp mình. Chỉ có thể đề 
cao, ƣu tiên vấn đề dân tộc mới đoàn kết đƣợc đông đảo nhân dân và toàn dân tộc, tạo 
ra sức mạnh tổng hợp, to lớn nhất và các dân tộc thuộc địa nhƣ Việt Nam mới có điều 
kiện, khả năng giành thắng lợi trƣớc những kẻ thù là đế quốc, thực dân. Ngay từ những 
năm tháng bôn ba, hoạt động ở nƣớc ngoài, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sức mạnh to 
lớn của chủ nghĩa dân tộc chân chính đối với các nƣớc thuộc địa. trong bản Báo cáo về 
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã 
khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nƣớc. Chính nó đã gây nên 
cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những ngƣời culi biết phản đối, nó làm 
cho những ngƣời “nhà quê” phản đối ngầm trƣớc thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ 
nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với ngƣời Pháp 
và ngƣời Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách 
mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mƣu tính khởi nghĩa năm 1917”7. Chính 
vì vậy, Ngƣời đã đề nghị Quốc tế Cộng sản “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân 
danh Quốc tế Cộng sản Giờ đây, ngƣời ta sẽ không thể làm gì đƣợc cho ngƣời An 
Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”8. 
 Đặc trưng của độc lập dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, độc lập phải là độc lập thật 
sự; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong nhiều bài nói, bài viết, Ngƣời 
đã đề cập đến vấn đề này, điển hình nhƣ: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do 
Ngƣời soạn thảo có đoạn: “Làm tƣ sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để 
đi tới xã hội cộng sản”. Ngày 31/10/1966, phát biểu trong buổi chiêu đãi Đoàn đại biểu 
Đảng và Chính phủ Cuba, Hồ Chí Minh nêu: “hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật 
sự”9. Năm 1969, trong thƣ gửi Tổng thống Mỹ R. Ních-xơn, Hồ Chí Minh tiếp tục 
6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.513. 
7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.511. 
8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.513. 
9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.615. 
|190 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
khẳng định: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình 
chân chính trong độc lập và tự do thực sự”10 
 Một dân tộc có đƣợc nền độc lập thật sự khi đánh đuổi hoàn toàn kẻ xâm lƣợc, 
thống trị ra khỏi lãnh thổ, quốc gia của dân tộc mình và có toàn quyền quyết định vận 
mệnh và mọi vấn đề của dân tộc mình, trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia dân tộc 
mình, không có sự can thiệp của lực lƣợng bên ngoài quốc gia dân tộc, thực thi đƣợc 
chủ quyền của dân tộc. Năm 1947, khi trả lời phóng viên báo Roitơ, Hồ Chí Minh nói: 
"Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự 
can thiệp ở ngoài vào"11. Bên cạnh đó, độc lập phải gắn với sự thống nhất và toàn vẹn 
của lãnh thổ quốc gia dân tộc. Trong bức điện gửi các nhà lãnh đạo chính phủ các nƣớc 
Á - Phi, Hồ Chí Minh viết: ''Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình nhƣng quyết 
không bao giờ lùi bƣớc trƣớc bất kỳ một sự đe dọa nào của bọn đế quốc. Hơn 30 triệu 
nhân dân Việt Nam, đoàn kết muôn ngƣời nhƣ một, quyết tâm đánh bại bọn xâm lƣợc 
Mỹ cho đến thắng lợi cuối cùng để bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của 
Tổ quốc mình''12. Quán triệt tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh, nhân dân ta dƣới sự lãnh đạo 
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh bại đế quốc, thực dân xâm lƣợc Pháp và Mỹ, 
khiến chúng phải cúi đầu ký Hiệp định Giơnevơ (1954) và Pari (1973) công nhận 
những quyền dân tộc cơ bản, thiêng liêng của dân tộc ta: độc lập, chủ quyền, thống 
nhất và toàn vẹn lãnh thổ. 
 Độc lập dân tộc thật sự còn gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân (độc lập dân 
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội). Giành lại độc lập cho dân tộc là nội dung quan 
trọng, nhƣng mới là điểm khởi đầu của cuộc cách mạng vô sản mà Việt Nam đi theo. 
Mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng là tự do, hạnh phúc của nhân dân. Năm 1945, 
sau Cách mạng tháng Tám, trong bức thƣ gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và 
làng, Hồ Chí Minh nói: “Nƣớc độc lập mà dân không hƣởng hạnh phúc tự do, thì độc 
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”13. 
 Tƣ tƣởng “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí Minh đáp 
ứng đƣợc khát vọng của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, vì vậy đã quy tụ đƣợc toàn 
10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.488. 
11 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.162. 
12 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.520. 
13 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.64. 
 191| 
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam 
dân tộc đoàn kết dƣới ngọn cờ của Đảng, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của cách 
mạng. Ở Việt Nam thời kỳ chiến tranh cách mạng, cũng nhƣ hiện nay, độc lập dân tộc 
và chủ nghĩa xã hội luôn là mối quan hệ biện chứng. Độc lập dân tộc là tiền đề, điều 
kiện của chủ nghĩa xã hội (tự do, hạnh phúc của nhân dân); đồng thời, chủ nghĩa xã hội 
là điều kiện, sức mạnh để giành lại độc lập dân tộc (ngày nay là bảo vệ nền độc lập của 
dân tộc). “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng đƣợc các dân 
tộc bị áp bức và những ngƣời lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”14. 
III. KẾT LUẬN 
 V.I. Lênin đã phát triển học thuyết của C. Mác trong thời đại của chủ nghĩa đế 
quốc, Ngƣời cũng phát hiện ra vai trò quan trọng của phong trào giải phóng dân tộc đối 
với cách mạng vô sản ở các nƣớc chính quốc và chỉ ra những điều kiện hàng đầu cho 
việc giành thắng lợi của cách mạng thuộc địa là phải vận động theo xu hƣớng của cách 
mạng vô sản và đoàn kết chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc. 
 Hồ Chí Minh là học trò xuất sắc của V.I. Lênin, Ngƣời đã vận dụng sáng tạo và 
phát triển học thuyết của Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Hồ Chí Minh 
không tìm hiểu vấn đề dân tộc nói chung, Ngƣời tập trung vào việc luận giải, cắt nghĩa 
làm sáng tỏ vấn đề dân tộc thuộc địa. Ngƣời chỉ rõ, thực chất của vấn đề dân tộc thuộc 
địa là đánh đuổi thực dân, giành độc lập cho dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nội 
dung cốt lõi mà cách mạng nơi đây cần tập trung, ƣu tiên giải quyết là độc lập và tự do. 
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ những đặc trƣng cơ bản của vấn đề độc lập dân tộc ở Việt 
Nam nhƣ: độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự; độc lập dân tộc gắn liền với chủ 
nghĩa xã hội. Ngƣời đã phát hiện ra sức mạnh to lớn ở các thuộc địa đó là chủ nghĩa 
dân tộc chân chính và kêu gọi Quốc tế Cộng sản phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ 
nhân danh Quốc tế Cộng sản. 
 Sự vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết V.I. Lênin vào Việt Nam của Hồ 
Chí Minh nói chung, tƣ tƣởng về vấn đề dân tộc nói riêng đã giúp cho cách mạng Việt 
Nam phát triển và giành đƣợc hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7, Nxb Chính 
 trị quốc gia, Hà Nội. 
14 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.563. 
|192 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
2. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường 
 cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
3. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
4. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
5. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
6. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
8. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 193| 

File đính kèm:

  • pdfho_chi_minh_van_dung_sang_tao_va_phat_trien_tu_tuong_cua_v_i.pdf