Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam

Tóm tắt

Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một bộ phận

quan trọng trong hệ tư tưởng của Hồ Chí Minh, được hình thành và phát triển

cùng với toàn bộ quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn của Người. Đây là vấn

đề cốt lõi, cũng là sự kết tinh, tỏa sáng nhằm hiện thực hóa ước mơ hàng ngàn

năm của dân tộc Việt Nam đã được nâng lên tầm cao mới: Độc lập dân tộc gắn

liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con

người. Nó thể hiện sự vận dụng trung thành sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin phù hợp với thực tiễn Việt Nam và trở thành mục tiêu xuyên suốt chỉ đạo

toàn bộ tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài

viết tập trung làm rõ vấn đề trên.

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 1

Trang 1

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 2

Trang 2

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 3

Trang 3

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 4

Trang 4

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 5

Trang 5

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 6

Trang 6

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 7

Trang 7

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 8

Trang 8

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 4280
Bạn đang xem tài liệu "Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam
ỳ khác nhau và trở thành một 
phong trào hiện thực xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc, tiến lên 
chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Đây là sự lựa chọn chính trị 
tự nguyện của tuyệt đại bộ phận nhân dân và các dân tộc Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của 
Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại. 
 Với những thành quả lịch sử nhƣ Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi của 
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã nêu lên một 
nguyên lý mới của thời đại. Đó là chủ nghĩa tƣ bản có thể bị đánh bại tại vùng ngoại vi, 
trƣớc khi nó bị đánh bại tại quê hƣơng của nó. Sau những trận thử sức này, nhân dân Việt 
Nam, hơn ai hết hiểu rõ thực chất của chủ nghĩa tƣ bản, nên không thể không tìm kiếm 
con đƣờng phát triển đất nƣớc bỏ qua chế độ đó. 
 Dƣới ánh sáng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, sau năm 1954, miền Bắc đã hoàn thành 
cách mạng dân tộc dân chủ. Ngƣời đã cùng Đảng ta chủ trƣơng đƣa miền Bắc tiến lên 
chủ nghĩa xã hội. Xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trở thành hậu phƣơng vững 
chắc, thành một chế độ chính trị ƣu việt, bảo đảm cho nhân dân ta đánh thắng đế quốc 
Mỹ - một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trong thế giới tƣ bản chủ nghĩa. 
 Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nƣớc tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong 
khoảng 10 năm (1975 - 1986), tình hình kinh tế - xã hội của nƣớc ta gặp không ít khó 
khăn. Cộng thêm với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nƣớc Đông 
Âu. Có nhiều ngƣời lung lạc và phai nhạt niềm tin về chủ nghĩa xã hội, đòi xem xét lại 
con đƣờng chúng ta đang đi. Có ngƣời muốn dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, có ý 
kiến lại muốn đƣa nƣớc ta đi theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa Tất cả những khuynh 
hƣớng sai trái đó, đều đi ngƣợc lại với tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đã đƣợc Đảng ta phê 
phán uốn nắn, chỉ rõ: Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của Bác Hồ, 
của Đảng ta và nhân dân ta. 
2.2. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn Việt Nam 
 Các nhà sáng lập ra học thuyết Mác - Lênin, trong khi nhấn mạnh tính khách quan 
của sự vận động lịch sử từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản 
đã đề cập tính tất yếu của thời kỳ quá độ. Điều này đã đƣợc Mác chỉ ra trong tác phẩm 
Phê phán cương lĩnh Gôta. Mác viết: “Giữa xã hội tƣ bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản 
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với 
thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và Nhà nƣớc của thời kỳ ấy không thể là cái gì 
|280 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
khác hơn nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”6. Thực chất là Mác nói con 
đƣờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nƣớc tƣ bản phát triển cao, cơ sở vật chất và kỹ 
thuật cho chủ nghĩa xã hội đã đƣợc chủ nghĩa tƣ bản chuẩn bị tƣơng đối đầy đủ. 
 Kế thừa tƣ tƣởng của Mác, trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác về vấn đề Nhà nước, 
Lênin đã khái quát tƣ tƣởng của Mác và nêu ra luận điểm “những cơn đau đẻ kéo dài” - 
tức thời kỳ quá độ. Sau này, trong các tác phẩm khác, Lênin tiếp tục bảo vệ và phát 
triển tƣ tƣởng của Mác - Ăngghen, phân tích và luận chứng ngày càng sâu sắc về thời 
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là với thắng lợi của Cách mạng tháng Mƣời 
Nga đã làm cho lý luận về thời kỳ quá độ có sự phát triển mới. Cái mới đó đƣợc thể 
hiện ở chỗ cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra trƣớc tiên ở nƣớc Nga, một nƣớc tƣ bản 
trung bình, với xuất phát điểm thấp hơn các nƣớc tƣ bản Tây Âu về kinh tế và văn hoá. 
Đặc biệt là giai cấp công nhân Nga chiếm tỷ lệ còn thấp trong dân cƣ và nƣớc Nga cách 
mạng còn đang phải vận động trong một biển những ngƣời tiểu nông. Vì vậy, theo 
Lênin, nƣớc Nga bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử 
tƣơng đối dài, nó cần phải thực hiện những bƣớc qua độ nhỏ, những nhịp cầu, những 
hình thức kinh tế trung gian để dần dần lôi cuốn nhân dân Nga, mà đa số là tiểu nông, 
đi lên chủ nghĩa xã hội. Lênin viết: “Nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng 
ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào một thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ”7. 
 Vận dụng lý luận về cách mạng vô sản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của 
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ đặc điểm của tình hình thực tiễn Việt 
Nam, một nƣớc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ 
yếu nên đã khẳng định con đƣờng cách mạng Việt Nam là: Tiến hành giải phóng dân tộc, 
hoàn thành dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội (quá độ lên chủ nghĩa xã hội), chứ 
không thể làm ngay cuộc cách mạng vô sản, thiết lập chuyên chính vô sản và bƣớc ngay 
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhƣ ở các nƣớc tƣ bản phát triển. 
 Nếu nhƣ Mác - Ăngghen chủ yếu đề cập phƣơng thức quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa 
tƣ bản đã phát triển cao lên chủ nghĩa xã hội. Đến Lênin đề cập cả hai loại hình quá độ, 
nhƣng ở loại hình sau, ông cũng chỉ mới nêu lên ở dạng khái quát, mang tính định hƣớng 
lý luận chung; còn Hồ Chí Minh đã căn cứ vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam để xây 
dựng quan niệm và lý giải những vấn đề của phƣơng thức quá độ gián tiếp ở một nƣớc 
chậm phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội và những tìm tòi lý luận của Ngƣời gắn liền với 
6 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47. 
7 V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.266. 
 281| 
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam 
loại hình quá độ này ở Việt Nam. Đây có thể đƣợc coi là một đóng góp đặc sắc của Hồ 
Chí Minh về lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
 Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã diễn ra theo đúng tƣ tƣởng đó. Ngay từ năm 
1930, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân ta đã tiến hành cuộc 
cách mạng giải phóng dân tộc. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, trải qua 
cuộc kháng chiến chống đế quốc lâu dài vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng chế 
độ dân chủ nhân dân, chúng ta đã giành đƣợc độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân 
cày, chế độ dân chủ nhân dân về cơ bản đƣợc xây dựng. Sau khi hoàn thành cách mạng 
dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng Việt Nam tất yếu bƣớc vào thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ năm 1954, và trong cả nƣớc từ năm 1975. Nhƣ vậy, 
nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở cơ bản đã hoàn thành 
cách mạng dân tộc dân chủ, chế độ dân chủ nhân dân đã đƣợc xây dựng và phát triển. 
 Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Ngƣời chỉ rõ: “Đặc điểm to nhất của ta 
trong thời kỳ quá độ là từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã 
hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tƣ bản chủ nghĩa Vì vậy, nhiệm vụ quan 
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã 
hội, đƣa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện 
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, 
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là 
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”8. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với bảo vệ 
chủ nghĩa xã hội. 
 Về biện pháp thực hiện theo Hồ Chí Minh, cách mạng đòi hỏi phải có một chuyển 
biến sâu sắc về tƣ tƣởng và nhận thức, có những chính sách, những biện pháp và công 
tác tổ chức phù hợp với tình hình mới. Trƣớc hết, phải giữ vững và tăng cƣờng vai trò 
lãnh đạo của Đảng. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến của Đảng, làm 
cho Đảng phải thực sự chuyển biến về chức năng và tổ chức phù hợp với nhiệm vụ 
lãnh đạo của giai đoạn mới; bên cạnh đó, phải tăng cƣờng vai trò quản lý của Nhà 
nƣớc. Theo Ngƣời, tất cả các cơ quan nhà nƣớc phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ 
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Phải xây dựng bộ 
máy nhà nƣớc trong sạch, vững mạnh, trở thành nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, đủ 
năng lực uy tín quản lý đất nƣớc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 
Nhà nƣớc phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, nhằm phát 
8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.411-412. 
|282 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi ngƣời công dân Việt Nam 
thực sự tham gia quản lý công việc nhà nƣớc. Đồng thời, tiếp tục củng cố và mở rộng 
Mặt trận Dân tộc thống nhất theo tinh thần: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến 
đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào 
lực lƣợng vĩ đại của toàn dân”9. Toàn dân ở đây cần hiểu là bao gồm tất cả các giai cấp, 
tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, không trừ một ai, một lực lƣợng nào, ngoại trừ bọn phản 
động chống lại chủ nghĩa xã hội, đi ngƣợc lại đƣờng lối xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai 
trò lãnh đạo của Đảng ta Và phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, 
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
 Trên lĩnh vực xây dựng kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải tăng gia sản xuất và 
thực hành tiết kiệm. Ngƣời viết: Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác 
là phải dốc lực lƣợng của mọi ngƣời ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của 
chúng ta hiện nay. “Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”10. 
Ngƣời chủ trƣơng phát triển cả nông nghiệp và công nghiệp, lấy nông nghiệp là mặt 
trận hàng đầu. Cụ thể, đối với các thành phần kinh tế, Ngƣời chủ trƣơng phải phát triển 
thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc 
đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của 
nhân dân lao động, Nhà nƣớc đặc biệt khuyến khích, hƣớng dẫn và giúp đỡ cho nó phát 
triển. Đối với ngƣời làm nghề thủ công và lao động khác, Nhà nƣớc phải bảo hộ quyền 
sở hữu, phải hƣớng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con 
đƣờng làm ăn hợp tác xã. Còn những nhà tƣ sản công thƣơng, vì họ tham gia ủng hộ 
cách mạng dân tộc dân chủ, đã có đóng góp nhất định trong khôi phục, phát triển kinh 
tế và sẵn sàng tiếp thu cải tạo để góp phần xây dựng nhà nƣớc, xây dựng chủ nghĩa xã 
hội Cho nên, Nhà nƣớc không xóa bỏ quyền sở hữu về tƣ liệu sản xuất và tài sản 
khác của họ, mà ra sức hƣớng dẫn, giúp đỡ họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, 
phù hợp với kế hoạch kinh tế nhà nƣớc; khuyến khích, động viên họ cải tạo theo chủ 
nghĩa xã hội bằng hình thức công tƣ hợp doanh và những hình thức cải tạo khác. 
 Nhƣ vậy, về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh đã chú ý phát triển kinh tế nhiều thành 
phần, với các hình thức khác nhau, với những chủ trƣơng, chính sách cụ thể cho từng 
thành phần kinh tế, nhằm tạo ra động lực kinh tế mạnh mẽ trong xây dựng chủ nghĩa xã 
9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.617. 
10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.70. 
 283| 
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam 
hội. Bên cạnh đó, Ngƣời còn nhấn mạnh vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ 
thuật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Ngƣời, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội 
thì nhất định phải có học thức, cho nên cần phải học cả văn hoá, chính trị, kỹ thuật. 
Ngƣời nói: Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn đƣa loài ngƣời đến hạnh 
phúc vô tận. Ngƣời coi trọng nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài. Ngƣời đề ra 
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, giữ vững và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, 
tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. 
 Về bƣớc đi và phƣơng thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 
Hồ Chí Minh nhắc nhở phải học tập kinh nghiệm dồi dào của các nƣớc anh em, nhƣng 
không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, phải tiến hành từng bƣớc 
vững chắc từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội. 
 Từ những nghiên cứu trên cho chúng ta thấy rằng, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con 
đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm những vấn đề rất cơ bản về chiến 
lƣợc và sách lƣợc, phƣơng hƣớng bƣớc đi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở 
nƣớc ta, trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh 
nghiệm của các đảng anh em vào thực tiễn. Thực tế những thành bại trong công cuộc 
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trƣớc đây và trên cả nƣớc sau này, đều đã chứng 
minh những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đƣờng quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội ở nƣớc ta là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt 
Nam. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển tƣ tƣởng của Ngƣời về con 
đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là vấn đề 
rất thiết thực, vừa cơ bản, vừa cấp bách. 
III. KẾT LUẬN 
 Khƣớc từ những con đƣờng cứu nƣớc của các bậc tiền bối theo khuynh hƣớng 
phong kiến và tƣ sản, ngƣời thanh niên Nguyễn Tất Thành đã Tây du đi tìm con đƣờng 
cứu nƣớc mới. Trong hành trình đó, từ chủ nghĩa yêu nƣớc Ngƣời đã đến với chủ nghĩa 
quốc tế vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp 
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tìm thấy con đƣờng giành độc lập dân tộc, tự do cho 
nhân dân. Trên cơ sở nền tảng tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, qua quá trình hoạt 
động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã phát triển những lý luận về chủ nghĩa xã 
hội một cách sáng tạo trong điều kiện xã hội thuộc địa, đề xuất một hệ thống quan điểm 
cơ bản về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Tất cả những 
quan điểm này đã đƣợc lịch sử thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và Cách 
|284 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
mạng tháng Tám (1945), thành tựu hơn 30 năm đổi mới đất nƣớc là một minh chứng 
sinh động nhất trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, con đƣờng cách mạng 
Việt Nam. 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 
 Văn phòng Trung ƣơng Đảng, Hà Nội. 
 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 9. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 
 285| 

File đính kèm:

  • pdfho_chi_minh_van_dung_sang_tao_quan_diem_chu_nghia_mac_lenin.pdf