Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam
Tóm tắt
Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một bộ phận
quan trọng trong hệ tư tưởng của Hồ Chí Minh, được hình thành và phát triển
cùng với toàn bộ quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn của Người. Đây là vấn
đề cốt lõi, cũng là sự kết tinh, tỏa sáng nhằm hiện thực hóa ước mơ hàng ngàn
năm của dân tộc Việt Nam đã được nâng lên tầm cao mới: Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Nó thể hiện sự vận dụng trung thành sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin phù hợp với thực tiễn Việt Nam và trở thành mục tiêu xuyên suốt chỉ đạo
toàn bộ tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài
viết tập trung làm rõ vấn đề trên.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam
ỳ khác nhau và trở thành một phong trào hiện thực xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Đây là sự lựa chọn chính trị tự nguyện của tuyệt đại bộ phận nhân dân và các dân tộc Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại. Với những thành quả lịch sử nhƣ Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã nêu lên một nguyên lý mới của thời đại. Đó là chủ nghĩa tƣ bản có thể bị đánh bại tại vùng ngoại vi, trƣớc khi nó bị đánh bại tại quê hƣơng của nó. Sau những trận thử sức này, nhân dân Việt Nam, hơn ai hết hiểu rõ thực chất của chủ nghĩa tƣ bản, nên không thể không tìm kiếm con đƣờng phát triển đất nƣớc bỏ qua chế độ đó. Dƣới ánh sáng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, sau năm 1954, miền Bắc đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ. Ngƣời đã cùng Đảng ta chủ trƣơng đƣa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trở thành hậu phƣơng vững chắc, thành một chế độ chính trị ƣu việt, bảo đảm cho nhân dân ta đánh thắng đế quốc Mỹ - một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trong thế giới tƣ bản chủ nghĩa. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nƣớc tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong khoảng 10 năm (1975 - 1986), tình hình kinh tế - xã hội của nƣớc ta gặp không ít khó khăn. Cộng thêm với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nƣớc Đông Âu. Có nhiều ngƣời lung lạc và phai nhạt niềm tin về chủ nghĩa xã hội, đòi xem xét lại con đƣờng chúng ta đang đi. Có ngƣời muốn dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, có ý kiến lại muốn đƣa nƣớc ta đi theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa Tất cả những khuynh hƣớng sai trái đó, đều đi ngƣợc lại với tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đã đƣợc Đảng ta phê phán uốn nắn, chỉ rõ: Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của Bác Hồ, của Đảng ta và nhân dân ta. 2.2. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn Việt Nam Các nhà sáng lập ra học thuyết Mác - Lênin, trong khi nhấn mạnh tính khách quan của sự vận động lịch sử từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã đề cập tính tất yếu của thời kỳ quá độ. Điều này đã đƣợc Mác chỉ ra trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta. Mác viết: “Giữa xã hội tƣ bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và Nhà nƣớc của thời kỳ ấy không thể là cái gì |280 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) khác hơn nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”6. Thực chất là Mác nói con đƣờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nƣớc tƣ bản phát triển cao, cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đã đƣợc chủ nghĩa tƣ bản chuẩn bị tƣơng đối đầy đủ. Kế thừa tƣ tƣởng của Mác, trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác về vấn đề Nhà nước, Lênin đã khái quát tƣ tƣởng của Mác và nêu ra luận điểm “những cơn đau đẻ kéo dài” - tức thời kỳ quá độ. Sau này, trong các tác phẩm khác, Lênin tiếp tục bảo vệ và phát triển tƣ tƣởng của Mác - Ăngghen, phân tích và luận chứng ngày càng sâu sắc về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là với thắng lợi của Cách mạng tháng Mƣời Nga đã làm cho lý luận về thời kỳ quá độ có sự phát triển mới. Cái mới đó đƣợc thể hiện ở chỗ cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra trƣớc tiên ở nƣớc Nga, một nƣớc tƣ bản trung bình, với xuất phát điểm thấp hơn các nƣớc tƣ bản Tây Âu về kinh tế và văn hoá. Đặc biệt là giai cấp công nhân Nga chiếm tỷ lệ còn thấp trong dân cƣ và nƣớc Nga cách mạng còn đang phải vận động trong một biển những ngƣời tiểu nông. Vì vậy, theo Lênin, nƣớc Nga bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tƣơng đối dài, nó cần phải thực hiện những bƣớc qua độ nhỏ, những nhịp cầu, những hình thức kinh tế trung gian để dần dần lôi cuốn nhân dân Nga, mà đa số là tiểu nông, đi lên chủ nghĩa xã hội. Lênin viết: “Nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào một thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ”7. Vận dụng lý luận về cách mạng vô sản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ đặc điểm của tình hình thực tiễn Việt Nam, một nƣớc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu nên đã khẳng định con đƣờng cách mạng Việt Nam là: Tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội (quá độ lên chủ nghĩa xã hội), chứ không thể làm ngay cuộc cách mạng vô sản, thiết lập chuyên chính vô sản và bƣớc ngay vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhƣ ở các nƣớc tƣ bản phát triển. Nếu nhƣ Mác - Ăngghen chủ yếu đề cập phƣơng thức quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tƣ bản đã phát triển cao lên chủ nghĩa xã hội. Đến Lênin đề cập cả hai loại hình quá độ, nhƣng ở loại hình sau, ông cũng chỉ mới nêu lên ở dạng khái quát, mang tính định hƣớng lý luận chung; còn Hồ Chí Minh đã căn cứ vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam để xây dựng quan niệm và lý giải những vấn đề của phƣơng thức quá độ gián tiếp ở một nƣớc chậm phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội và những tìm tòi lý luận của Ngƣời gắn liền với 6 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47. 7 V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.266. 281| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam loại hình quá độ này ở Việt Nam. Đây có thể đƣợc coi là một đóng góp đặc sắc của Hồ Chí Minh về lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã diễn ra theo đúng tƣ tƣởng đó. Ngay từ năm 1930, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân ta đã tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, trải qua cuộc kháng chiến chống đế quốc lâu dài vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, chúng ta đã giành đƣợc độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày, chế độ dân chủ nhân dân về cơ bản đƣợc xây dựng. Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng Việt Nam tất yếu bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ năm 1954, và trong cả nƣớc từ năm 1975. Nhƣ vậy, nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở cơ bản đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chế độ dân chủ nhân dân đã đƣợc xây dựng và phát triển. Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Ngƣời chỉ rõ: “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tƣ bản chủ nghĩa Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đƣa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”8. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Về biện pháp thực hiện theo Hồ Chí Minh, cách mạng đòi hỏi phải có một chuyển biến sâu sắc về tƣ tƣởng và nhận thức, có những chính sách, những biện pháp và công tác tổ chức phù hợp với tình hình mới. Trƣớc hết, phải giữ vững và tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của Đảng. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến của Đảng, làm cho Đảng phải thực sự chuyển biến về chức năng và tổ chức phù hợp với nhiệm vụ lãnh đạo của giai đoạn mới; bên cạnh đó, phải tăng cƣờng vai trò quản lý của Nhà nƣớc. Theo Ngƣời, tất cả các cơ quan nhà nƣớc phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Phải xây dựng bộ máy nhà nƣớc trong sạch, vững mạnh, trở thành nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, đủ năng lực uy tín quản lý đất nƣớc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhà nƣớc phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, nhằm phát 8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.411-412. |282 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi ngƣời công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc nhà nƣớc. Đồng thời, tiếp tục củng cố và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất theo tinh thần: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lƣợng vĩ đại của toàn dân”9. Toàn dân ở đây cần hiểu là bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, không trừ một ai, một lực lƣợng nào, ngoại trừ bọn phản động chống lại chủ nghĩa xã hội, đi ngƣợc lại đƣờng lối xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta Và phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực xây dựng kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Ngƣời viết: Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lƣợng của mọi ngƣời ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay. “Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”10. Ngƣời chủ trƣơng phát triển cả nông nghiệp và công nghiệp, lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Cụ thể, đối với các thành phần kinh tế, Ngƣời chủ trƣơng phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nƣớc đặc biệt khuyến khích, hƣớng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển. Đối với ngƣời làm nghề thủ công và lao động khác, Nhà nƣớc phải bảo hộ quyền sở hữu, phải hƣớng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đƣờng làm ăn hợp tác xã. Còn những nhà tƣ sản công thƣơng, vì họ tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ, đã có đóng góp nhất định trong khôi phục, phát triển kinh tế và sẵn sàng tiếp thu cải tạo để góp phần xây dựng nhà nƣớc, xây dựng chủ nghĩa xã hội Cho nên, Nhà nƣớc không xóa bỏ quyền sở hữu về tƣ liệu sản xuất và tài sản khác của họ, mà ra sức hƣớng dẫn, giúp đỡ họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế nhà nƣớc; khuyến khích, động viên họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tƣ hợp doanh và những hình thức cải tạo khác. Nhƣ vậy, về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh đã chú ý phát triển kinh tế nhiều thành phần, với các hình thức khác nhau, với những chủ trƣơng, chính sách cụ thể cho từng thành phần kinh tế, nhằm tạo ra động lực kinh tế mạnh mẽ trong xây dựng chủ nghĩa xã 9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.617. 10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.70. 283| Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam hội. Bên cạnh đó, Ngƣời còn nhấn mạnh vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Ngƣời, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức, cho nên cần phải học cả văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Ngƣời nói: Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn đƣa loài ngƣời đến hạnh phúc vô tận. Ngƣời coi trọng nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài. Ngƣời đề ra xây dựng nền văn hóa tiên tiến, giữ vững và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Về bƣớc đi và phƣơng thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải học tập kinh nghiệm dồi dào của các nƣớc anh em, nhƣng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, phải tiến hành từng bƣớc vững chắc từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội. Từ những nghiên cứu trên cho chúng ta thấy rằng, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm những vấn đề rất cơ bản về chiến lƣợc và sách lƣợc, phƣơng hƣớng bƣớc đi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta, trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh nghiệm của các đảng anh em vào thực tiễn. Thực tế những thành bại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trƣớc đây và trên cả nƣớc sau này, đều đã chứng minh những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đƣờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển tƣ tƣởng của Ngƣời về con đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là vấn đề rất thiết thực, vừa cơ bản, vừa cấp bách. III. KẾT LUẬN Khƣớc từ những con đƣờng cứu nƣớc của các bậc tiền bối theo khuynh hƣớng phong kiến và tƣ sản, ngƣời thanh niên Nguyễn Tất Thành đã Tây du đi tìm con đƣờng cứu nƣớc mới. Trong hành trình đó, từ chủ nghĩa yêu nƣớc Ngƣời đã đến với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tìm thấy con đƣờng giành độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân. Trên cơ sở nền tảng tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, qua quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã phát triển những lý luận về chủ nghĩa xã hội một cách sáng tạo trong điều kiện xã hội thuộc địa, đề xuất một hệ thống quan điểm cơ bản về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Tất cả những quan điểm này đã đƣợc lịch sử thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và Cách |284 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) mạng tháng Tám (1945), thành tựu hơn 30 năm đổi mới đất nƣớc là một minh chứng sinh động nhất trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, con đƣờng cách mạng Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ƣơng Đảng, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 285|
File đính kèm:
- ho_chi_minh_van_dung_sang_tao_quan_diem_chu_nghia_mac_lenin.pdf