Hiện trạng và tiềm năng năng lượng từ phế thải nông nghiệp tại tỉnh Daklak
Ngày nay, nhu cầu năng lượng ngày càng tăng cùng với
các định chế nghiêm ngặt về phát thải khí nhà kính và vấn đề an
ninh năng lượng đòi hỏi phải tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế.
Ở Tây Nguyên, nguồn năng lượng tái tạo dựa trên sinh khối nông
nghiệp là những lựa chọn hấp dẫn đối với nguồn nguyên liệu đầu
vào tạo năng lượng. Mục đích của bài báo này là nhận dạng các
nguồn phế thải nông nghiệp sẵn có như cà phê, gạo, ngô, sắn,
mía nhằm đánh giá tiềm năng năng lượng. Phương pháp nghiên
cứu là tổng hợp các phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc, khảo
sát và phân tích tạo nên cách tiếp cận hiệu quả để làm rõ được
mục tiêu nghiên cứu. Chương trình điều tra đã được thực hiện với
337 hộ nông dân tại 10 huyện và thành phố của tỉnh Daklak. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, tổng khối lượng phế thải nông nghiệp
tiềm năng là 818,1 ngàn tấn trong năm 2015, có thể sản sinh
khoảng 277,7 triệu lít Etanol hoặc lượng nhiệt 14 triệu TJ/năm.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng và tiềm năng năng lượng từ phế thải nông nghiệp tại tỉnh Daklak
ấu 0,21 107.950 121.336 116.723 Mía 0,1** 66.050 67.140 65.339 Ngô 2,0** 2.316.786 2.263.572 2.083.154 Hồ tiêu 0,57*** 11.063 14.076 20.035 Sắn 0,3*** 171.378 176.242 216.222 Tổng 3.592.707 3.622.152 3.463.588 Ghi chú: Nguồn: * [3] ** [4] *** [5] Kết quả tính toán trong Bảng 3 cho thấy tổng lượng phế thải nông nghiệp của tỉnh Daklak trong 3 năm 2013, 2014 ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(120).2017, QUYỂN 2 93 và 2015 không có sự khác biệt đáng kể, tổng lượng phát sinh năm 2015 khoảng 3,5 triệu tấn. Hình 1. Biểu đồ tỷ trọng các loại phế thải nông nghiệp của tỉnh Daklak năm 2015 Hình 1, cho thấy phế thải từ các cây ngô chiếm chủ đạo với tỷ trọng 60,1%, theo sau là thế thải ngành lúa (chủ yếu rơm rạ) với tỷ trọng khoảng 22%. Vỏ cà phê và cây sắn với tỷ trọng không nhiều, lần lượt là 9,3% và 6,2%. Còn lại là phế thải cây mía và vỏ hồ tiêu với số lượng không đáng kể. Số liệu trên cũng thể hiện tính đặc thù canh tác các cây trồng ngắn ngày chủ yếu là ngô, lúa nước và đồng thời điển hình canh tác cây cà phê của tỉnh Daklak. 3.1.2. Các hình thức tận dụng và thải bỏ phế thải nông nghiệp Kết quả khảo sát và phỏng vấn 337 hộ nông dân tại 10 huyện và thành phố của tỉnh Daklak cho thấy hoạt động tận dụng và thải bỏ phế thải nông nghiệp tại các nông hộ khá đa dạng, tuỳ thuộc vào nhu cầu cũng như chủng loại và mức độ tập trung của phế thải sau thu hoạch của các loại cây chủ yếu của tỉnh, chi tiết thể hiện trong Bảng 4 và Hình 2 dưới đây. Bảng 4. Tỷ lệ các hình thức tận dụng và thải bỏ phế thải nông nghiệp của tỉnh Daklak (%) Loại phế thải Hình thức xử lý Vỏ cà phê Lúa (rơm rạ) Vỏ trấu Mía Ngô Tiêu Sắn Đốt bỏ 4 13 14 45 5 58 17 Đổ Bỏ 7 15 12 23 16 42 16 Bán 2 14 57 11 27 - 20 Thức ăn gia súc - 28 1 20 - - Ủ phân vi sinh 66 10 - - - - Ủ phân hoai 16 10 - 4 - - Đệm lót chuồng trại 1 - 12 - 13 - - Trồng nấm - 4 - - - - Hình thức khác 4 5 5 20 15 - 47 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Phân tích biểu đồ Hình 2 thể hiện ba nhóm ứng xử với phế thải nông nghiệp của nông hộ ở Daklak, gồm: i) tận dụng và tái sử dụng; ii) bán cho người có nhu cầu và iii) đốt hoặc thải bỏ. Nhóm các hình thức tận dụng và tái sử dụng phế thải chiếm 26,4%, trong đó dùng để ủ phân bón khoảng 15,1%, thể hiện ở các loại phế thải sau thu hoạch có tính tập trung và dinh dưỡng cao như vỏ cà phê, rơm rạ và phế thải cây ngô. Theo sau là dùng làm đệm sinh học và thức ăn cho gia súc 10,7%, còn lại dùng làm nấm. Ngoài việc tận dụng phế thải, khi có người mua thì các nông hộ cũng bán đi nếu không có nhu cầu sử dụng, trung bình nhóm này chiếm 18,7% tổng khối lượng phế thải phát sinh. Đa số lượng phế thải này được các nông hộ có chăn nuôi đại gia súc mua về sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như làm đệm sinh học và ủ phân sinh học hoạt động này đã giúp nâng tỷ lệ phế thải được tận dụng lên 45,1% tổng lượng phát thải. Hình 2. Biểu đồ tỷ trọng các hình thức tận dụng và thải bỏ phế thải nông nghiệp của tỉnh Daklak Hình 3. Biểu đồ tỷ trọng trung bình các nhóm ứng xử phế thải nông nghiệp của tỉnh Daklak Khảo sát thực tế cho thấy, các nông hộ canh tác với diện tích nhỏ, đa canh và phân tán thường không tận dụng phế thải sau thu hoạch vì rất khó thu gom và vận chuyển tập trung, tốn công lao động. Do vậy, họ thường đốt bỏ hoặc đổ bỏ tại nương rẫy hoặc nơi xay xát, chiếm tỷ trọng 41,0%, cao hơn nhóm các hình thức tận dụng. Các phế thải này chủ yếu từ các nguồn: vỏ hồ tiêu, rơm/rạ, bã/ngọn mía, thân/vỏ/cùi ngô và thân/vỏ sắn. Những vật liệu này nếu được thu gom và tập trung sẽ là nguồn sinh năng lượng tiềm năng và giảm thiểu được phát thải khí nhà kính và ô nhiễm. Ngoài ra, một số nông hộ còn tận dụng một số phế thải nông nghiệp cho các mục đích khác nhau như: cùi, vỏ ngô, bã mía đốt lấy nhiệt nấu ăn, vỏ trấu làm than sinh học, một phần thân cây sắn làm cây hom giống cho mùa tiếp theo, dùng rơm che phủ gốc cây Vỏ Cà phê 9.3% Rơm, rạ 18.5% Vỏ trấu 3.4% Mía 1.9% Ngô 60.1% Hồ tiêu 0.6% Sắn 6.2% TỶ TRỌNG CÁC LOẠI PHẾ THẢI NÔNG NGHIỆP 0 10 20 30 40 50 60 70 Đốt bỏ Đổ Bỏ Bán Thức ăn gia súc Ủ phân vi sinh Ủ phân hoai Đệm lót chuồng trại Trồng nấm Hình thức khác CÁC HÌNH THỨC TẬN DỤNG PHẾ THẢI NÔNG NGHIỆP (%) Vỏ cà phê Lúa (rơm rạ) Vỏ trấu Mía Ngô Tiêu Sắn Nhóm đốt, đổ bỏ 41.0% Nhóm tận dụng 45.1% Hình thức khác 13.9% TỶ TRỌNG CÁC NHÓM ỨNG XỬ PHẾ THẢI SAU THU HOẠCH CỦA NÔNG HỘ 94 Nguyễn Hoàng Phương, Lê Thị Vân 3.2. Đánh giá nguồn phế thải nông nghiệp tiềm năng tạo năng lượng tại tỉnh Daklak Kết quả điều tra khảo sát thực tế cho thấy chỉ có hình thức đốt được áp dụng để tạo năng lượng từ phế thải nông nghiệp sau thu hoạch tại tỉnh Daklak. Không ghi nhận được việc ứng dụng các công nghệ thu hồi năng lượng khác như chuyển hoá thành nhiên liệu sinh học hoặc khí sinh học. Việc đốt các phế thải nông nghiệp chủ yếu ở 2 dạng: i) Các nông hộ tận dụng cùi, vỏ ngô, rơm, vỏ trấu, vỏ cà phêđốt lấy nhiệt nấu bếp hoặc sấy nông sản, chiếm khoảng 1,4% tổng lượng phát thải; và ii) Các cơ sở/đại lý thu mua, xay sát nông sản tận dụng một số phế thải như: vỏ cà phê, vỏ trấu đốt nhằm thu nhiệt để sấy các loại nông sản. Số liệu điều tra cho thấy, khoảng 81% các cơ sở xay xát và thu mua nông sản có sử dụng phế thải nông nghiệp để đốt lấy nhiệt sấy nông sản. Tuy nhiên, do các cơ sở này hoạt động tự phát theo khả năng số lượng nông sản mua được và không ổn định nên không có số liệu được ghi nhận về khối lượng phế thải được sử dụng. Để đánh giá tiềm năng tạo năng lượng từ phế thải nông nghiệp của tỉnh Daklak hiện tại, việc xác định tổng lượng phế thải tiềm năng chính là các loại phế phụ phẩm sau thu hoạch của các loại cây trồng chủ yếu phát sinh hàng năm nhưng chưa sử dụng cho bất kì mục đích tận dụng nào. Bảng 5. Khối lượng phế thải nông nghiệp đốt bỏ hoặc thải bỏ của tỉnh Daklak năm 2015 Loại phế thải Tổng lượng phát thải (tấn/năm) Tỷ lệ đốt/thải bỏ Khối lượng (tấn/năm) Tỷ trọng khối lượng Vỏ Cà phê 322.915 11% 35.521 4,3% Rơm rạ 639.199 28% 178.976 21,9% Vỏ trấu 116.723 26% 30.348 3,7% Mía 65.339 68% 44.431 5,4% Ngô 2.083.154 21% 437.462 53,5% Hồ tiêu 20.035 100% 20.035 2,4% Sắn 216.222 33% 71.353 8,7% Tổng 3.463.588 23,6% 818.126 100% Số liệu trong Bảng 5 trình bày tỷ lệ và ước tính khối lượng phế thải của từng loại cây nông nghiệp chủ yếu của tỉnh Daklak. Theo đó, tổng khối lượng phế thải tiềm năng là hơn 182 nghìn tấn, chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 23,6% tổng lượng phế thải của tỉnh. Hình 4. Biểu đồ tỷ trọng trung bình các loại phế thải nông nghiệp tiềm năng của tỉnh Daklak Hình 4 thể hiện rõ tỷ lệ thải bỏ của Ngô chỉ khoảng 21% nhưng với lượng phát thải nhiều đã đóng góp tỷ trọng phế thải nông nghiệp tiềm năng đến 53,5% (437,5 nghìn tấn). Sau cây ngô, rơm rạ cũng đóng góp tỷ trọng đáng kể với 21,9% và các phế thải khác góp phần không lớn, từ 2,4% đến 8,7%, chi tiết thể hiện trong Hình 4. 3.3. Đề xuất hướng tận dụng phế thải nông nghiệp tiềm năng thành năng lượng của tỉnh Daklak Nghiên cứu tiến hành hội thảo có sự tham gia của các bên liên quan đến việc tận dụng các nguồn phế phẩm tiềm năng thành vật liệu có ích và năng lượng. Với sự tham dự của 29 nông hộ với tính đa dạng cao và điển hình liên quan trực tiếp đến phế thải nông nghiệp tại khu vực nghiên cứu, chi tiết trình bày trong Bảng 6. Bảng 6. Đặc điểm các bên liên quan Giới tính Dân tộc thiểu số Tuổi Trình độ học vấn Nghề nghiệp Số lượng người Nam:19 Nữ: 9 04 Dưới 30: 4 30-45: 11 Trên 45: 13 THPT: 28 ĐH: 01 Nông dân: 14 Hội nông dân, phụ nữ: 05 Cán bộ cấp xã, thôn (có trồng trọt): 09 Kết quả đề xuất hướng tận dụng phế thải nông nghiệp của hội thảo được phân hạng trong Bảng 7. Bảng 7. Phân hạng ưu tiên hướng tận dụng phế thải nông nghiệp tiềm năng của tỉnh Daklak Thứ tự ưu tiên Hướng tận dụng phế thải Sản phẩm thu được 1 Nhiệt phân quy mô nông hộ với tất cả các phế phẩm sẵn có. Thu nhiệt để nấu bếp và than sinh học. 2 Đốt lấy nhiệt tập trung với vỏ cà phê, vỏ trấu, rơm rạ, phế thải mía. Thu nhiệt để sấy nông sản và phát điện. 3 Lên men Etanol quy mô tập trung với phế thải từ ngô, rơm rạ và mía. Nhiên liệu sinh học. Dựa vào đề xuất định hướng sử dụng phế thải nông nghiệp của các bên liên quan, nghiên cứu tiến hành ước tính lượng nhiệt và Etanol có thể tạo ra từ lượng phế thải tiềm năng của tỉnh Daklak trong Bảng 5. Bảng 8. Ước tính lượng Etanol sản xuất từ phế thải nông nghiệp tiềm năng của tỉnh Daklak Phế thải Khối lượng (tấn/năm) Hiệu suất Etanol (lít/tấn) Sản lượng Etanol (lít/năm) Rơm rạ 178.976 415,42* 74.350.210 Mía 44.431 427,12* 18.977.369 Ngô 437.462 421,47* 184.377.109 Tổng 660.869 277.704.688 Ghi chú: * kế thừa từ Alternative Fuels Data Center [8] Bảng 8 cho thấy tổng sản lượng Etanol có thể sinh ra từ phế thải nông nghiệp của tỉnh Daklak năm 2015 là 277,7 triệu lít. Trong đó, đóng góp nhiều nhất là từ phế thải cây ngô với tỷ trọng hơn 66%. Tuy nhiên, cần có giải pháp thu gom triệt để và tập trung để có thể áp dụng công nghệ này trên thực tế. Vỏ Cà phê 4% Rơm rạ 22% Vỏ trấu 4% Mía 5% Ngô 54% Hồ tiêu 2% Sắn 9% TỶ LỆ PHẾ THẢI NÔNG NGHIỆP TIỀM NĂNG ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 11(120).2017, QUYỂN 2 95 Với định hướng đốt phế thải nông nghiệp để lấy nhiệt và than sinh học là giải pháp được các nông hộ ưu tiên lựa chọn cho quy mô hộ gia đình. Đây là giải pháp công nghệ có tính phân tán và tuỳ theo nhu cầu của mỗi nông hộ để tùy chỉnh thu nhiệt nhiều/than sinh học ít và ngược lại. Nhiệt lượng tối đa sinh ra từ phế thải nông nghiệp tiềm năng của tỉnh được ước tính trong Bảng 9. Bảng 9. Ước tính nhiệt lượng sinh ra từ phế thải nông nghiệp tiềm năng của tỉnh Daklak Nguồn phế thải Độ ẩm (%) Giá trị sinh nhiệt (MJ/kg) Khối lượng (tấn/năm) Nhiệt lượng (TJ/năm) Vỏ cà phê 19,1 19,80* 35.521 703.309,1 Rơm rạ 11,8 14,52* 178.976 2.598.726,4 Vỏ trấu 16,95 14,89* 30.348 451.882,4 Mía 14,7 17,32* 44.431 769.539,0 Ngô 19,25 17,65* 437.462 7.721.210,3 Hồ tiêu 2,9 20,39** 20.035 408.512,2 Sắn - 18,00*** 71.353 1.284.360,5 Tổng 13.937.539,9 Ghi chú: Nguồn * [9], ** [10], *** [11] Bảng 9 cho thấy tổng nhiệt lượng từ phế thải nông nghiệp tiềm năng khoảng 14 triệu TJ/năm, đóng góp nhiều nhất là phế thải cây ngô với hơn 55%, theo sau là là rơm rạ và phế thải sắn với tỷ trọng đóng góp lần lượt là 18,6% và 9,2%. Các phế thải còn lại đóng góp nhiệt lượng nhỏ và không đáng kể. Như vậy, nếu nông hộ có các biện pháp thu gom phế thải từ cây ngô, lúa và sắn thì có thể tận dụng đốt thu nhiệt cho các mục đích khác nhau. 4. Kết luận Tổng lượng phế thải nông nghiệp của tỉnh Daklak năm 2015 là 3,5 triệu tấn. Trong đó, phế thải từ các cây ngô chiếm chủ đạo với tỷ trọng 60,1%, theo sau là thế thải ngành lúa với tỷ trọng khoảng 22%. Vỏ cà phê và cây sắn với tỷ trọng không nhiều, lần lượt là 9,3% và 6,2%. Phế thải nông nghiệp của các nông hộ ở Daklak thường được tận dụng và tái sử dụng (45,1%), đốt hoặc thải bỏ (41%) và mục đích khác (13,9%). Ước tính khối lượng phế tiềm năng của tỉnh khoảng 818 nghìn tấn, trong đó cây ngô chiếm tỷ trọng lớn nhất (53,5%), rơm rạ đóng góp tỷ trọng đáng kể với 21,9%. Dựa trên đề xuất của các bên liên quan, hướng sử dụng phế thải bằng công nghệ nhiệt phân quy mô nông hộ để thu nhiệt nấu bếp và than sinh học được ưu tiên đầu, xếp sau lần lượt là đốt lấy nhiệt tập trung để thu nhiệt sấy nông sản, phát điện, và lên men Etanol quy mô tập trung. Từ lượng phế thải tiềm năng của tỉnh, ước tính có thể sản sinh khoảng 227,7 triệu lít Etanol/năm. Nếu đốt lấy nhiệt có thể sinh ra nhiệt lượng khoảng 14 triệu TJ/năm. Lời cảm ơn: Tập thể tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của lãnh đạo các xã của Huyện Krông Năng, tỉnh Daklak. Ngoài ra, sự đóng góp của ThS. Nguyễn Văn Quý, KS. Hoàng Văn Lượng, KS. Lê Thị Vân Anh, KS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, KS. Nông Thị Nương, KS. Võ Thị Mai Phương đã tạo điều kiện hoàn thành nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Viện Năng lượng, Bộ Công thương, 2014. [2] Bộ Tài Nguyên Môi trường, Quyết định số 455/QĐ-BTNMT: Phê duyệt và công bố thống kê diện tích đất đai năm 2015, Hà Nội, 2017. [3] T. S. Nam, N. T. H. Như, N. H. Chiếm, N. V. C. Ngân, L. H. Việt and K. Ingvorsen, "Ước tính lượng và các biện pháp xử lý rơm rạ ở một số tỉnh Đồng bằng Sông Cửu long”, Tap̣ chí Khoa hoc̣ Trường Đại học Cần Thơ, vol. 32, pp. 87-93, 2014. [4] H. Liua, G. Jianga, H. Zhuang and K. Wang, "Distribution, utilization structure and potential of biomass resources in rural China: With special references of crop residues”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, vol. 12, pp. 1402-1418, 2008. [5] WHO, "Rapid assessment of Air, Water & Land Pollution Sources”, 1993. [6] M. Hiloidhari, D. Das and D. Baruah, "Bioenergy potential from crop residue biomass in India”, Renewable and Sustainable Energy Reviews, no. 32, pp. 504-512, 2014. [7] X. Zhou, F. Wang, H. Hu, L. Yang, P. Guo and B. Xiao, "Assessment of sustainable biomass resource for energy use in China”, biomass and bioenergy, vol. 35, pp. 1-11, 2011. [8] "Alternative Fuels Data Center”, 2016. [Online]. Available: https://www.afdc.energy.gov/fuels/ethanol_feedstocks.html. [9] D. R. Nhuchhen and P. A. Salam, "Estimation of higher heating value of biomass from proximate analysis: A new approach”, Fuel, vol. 99, pp. 55-63, 2012. [10] "ECN Phyllis classification”, 2017. [Online]. Available: https://www.ecn.nl/phyllis2/Browse/Standard/ECN- Phyllis#rice%20husk. [11] A. PATTIYA, "Thermochemical Characterization of Agricultural Wastes from Thai Cassava Plantations”, Energy Sources, vol. 33, no. Part A, pp. 601-701, 2011. [12] M. Jiang, B. Chen, J. Zhou, F. Tao, Z. Li, Z. Yang and G. Chen, "Emergy account for biomass resource exploitation by agriculture in China”, Energy Policy, vol. 35, pp. 4704-04719, 2007. [13] L. Cuiping, W. Chuangzhi, Yanyongjie and H. Haitao, "Chemical elemental characteristics of biomass fuels in China”, Biomass and Bioenergy, pp. 119-130, 2004. [14] T. Al-Shemmeri, R. Yedla and D. Wardle, "Thermal characteristics of various biomass fuels in a small-scale biomass combustor”, Applied Thermal Engineering, vol. 85, pp. 243-251, 2015. [15] A. E. Maragkaki, T. Kotrotsios, P. Samaras, A. Manou, K. Lasaridi and T. Manios, "Quantitative and Qualitative Analysis of Biomass from Agro- industrial Processes in the Central Macedonia Region, Greece”, Waste Biomass Valor, 2015. [16] N. Agency, Biomass Business Opportunities Viet Nam, 2012. (BBT nhận bài: 25/9/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 18/10/2017)
File đính kèm:
- hien_trang_va_tiem_nang_nang_luong_tu_phe_thai_nong_nghiep_t.pdf